TIÊM THUỐC VÀO HUYỆT (PHẦN 1)

TIÊM THUỐC VÀO HUYỆT (PHẦN 1)

 

1. Khái niệm:

Tiêm thuốc vào huyệt - thường gọi thủy châm - là một phương pháp chữa bệnh kết hợp giữa Đông và Tây y, phối hợp tác dụng chữa bệnh của châm kim theo học thuyết kinh lạc với tác dụng chữa bệnh của thuốc tiêm. Ngoài tác dụng tại chỗ hay toàn thân của thuốc tiêm, có những thuốc chỉ có tác dụng tăng cường và duy trì kích thích của châm kim vào huyệt để nâng cao kết quả chữa bệnh.

2. Nguồn gốc:

Ở Trung Quốc - xuất xứ của phương pháp thủy châm - năm 1954 nhóm bác sĩ Vạn Văn Kế ở Hồ Bắc; nhóm các bác sĩ Lư Loan, Lý Bồi Thành, Lý Đức Tuấn ở Thượng Hải bắt đầu dùng vitamin B1 thủy châm, chữa bệnh các chứng như viêm khớp mạn tính, xơ gan, di chứng bại liệt. Từ đó nhiều bệnh xá, bệnh viện của nhiều tỉnh thành ở Trung Quốc đều áp dụng thủy châm chữa bệnh với kết quả tương đối tốt.

Học tập kinh nghiệm của nước bạn ở Bắc Kinh từ năm 1955, về nước kết hợp với phương pháp châm cứu ở nước nhà, nhóm Giáo sư bác sĩ Nguyễn Tài Thu, Tiến sĩ Nuyễn Năng An, Lương y Đặng Văn Cáp, Vũ Xuân Quang bắt đầu nghiên cứu tiêm thuốc vào huyệt ở Việt Nam từ năm 1960.

Từ năm 1960 đến năm 1966 tiêm thuốc vào huyệt chủ yếu dùng những thứ thuốc tê rẻ tiền mà nước nhà sản xuất được như: vitamin B1, vitamin C, philatop, subtilis, novocain( )…, ngoài ra trong trường hợp cần thiết có thể dùng thuốc đặc hiệu nhưng dùng với liều lượng thấp hơn tiêm thường.

Từ năm 1966 đến nay, ngoài những thứ thuốc đã nói trên người ta còn dùng sản phẩm của ong (B14, nọc ong) để tiêm vào huyệt. Trong mấy chục năm qua, chữa bệnh bằng tiêm thuốc vào huyệt ngày càng phát triển rộng rãi trên đất nước ta và đã có những kết quả rất tốt, được mọi người tín nhiệm. Hiện nay có nhiều cơ sở nghiên cứu ứng dụng tiêm thuốc vào huyệt chữa bệnh kể cả dân và quân y. Phương pháp tiêm thuốc vào huyệt đã trở thành một phương pháp chữa bệnh phổ cập ở nước ta mà hiện nay các trạm y tế cơ sở đều có thể áp dụng dễ dàng.

3. Nguyên lý:

3.1. Theo học thuyết kinh lạc:

Thiên Hải luận trong sách Linh khu thuộc Nội kinh có viết: “Mười hai kinh mạch bên trong phụ thuộc 12 tạng phủ bên ngoài nối với các khớp chân tay”. Nhờ hệ kinh lạc mà các bộ phận trong cơ thể cấu thành một tổ chức hoàn chỉnh thống nhất.

Sách Thái tố của Dương Thượng Thiệu đời Tùy (Trung Quốc) thì viết: “Mười hai kinh mạch đi vào tạng phủ là nội kinh, đi ở tay chân và ngoài da là ngoại kinh”. Nói tóm lại tất cả các tạng phủ trong cơ thể con người quan hệ được chặt chẽ với nhau là nhờ hệ kinh lạc. Ví dụ: kinh phế bắt đầu từ trung tiêu xuống liên lạc với đại trường (phế và đại trường có quan hệ biểu lý), vòng lên qua phía trên của vị trở về tạng phế qua cổ họng rồi đi qua phía trong của cánh tay ra đầu ngón tay cái. Đường kinh đại trường đi từ đầu ngón tay trỏ qua phía ngoài cánh tay lên mỏm vai và khuyết bồn (hố trên đòn) qua tạng phủ xuống phủ đại trường, một nhánh nữa từ khuyết bồn lên má, vào lợi răng dưới ra tới bên cánh mũi. Vì vậy châm cứu vào các huyệt ở cánh tay thuộc kinh phế có thể chữa được bệnh ở phủ đại trường hoặc châm vào các huyệt ở bàn tay thuộc kinh đại trường (huyệt hợp cốc chẳng hạn) thì có thể chữa được đau răng hoặc chảy máu cam. Quan hệ mật thiết giữa tạng với phủ và giữa đường kinh này với đường kinh khác duy trì được là nhờ có hệ kinh lạc.

Khi nội tạng có bệnh, sẽ có phản ứng biểu hiện ra bên ngoài cơ thể. Khi chúng ta kích thích những bộ vị nhất định ở ngoài da cũng sẽ có phản ứng với nội tang. Quan hệ giữa các cơ quan và các tổ chức từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong đều do tác dụng của hệ kinh lạc.

Do đó, chữa bệnh bằng thủy châm cũng như chữa bệnh bằng các hình thức châm cứu khác, việc đầu tiên là phải nắm vững hệ thống kinh lạc thì mới sử dụng kinh huyệt chính xác được.

3.2. Theo học thuyết thần kinh thể dịch:

Vỏ não là cơ quan của phản xạ có điều kiện, mọi biến hóa bệnh lý là do biến hóa cơ năng của thần kinh cao cấp gây ra.

Nhiều thực nghiệm đều chứng minh rằng: vỏ não quản lý mọi hoạt động của nội tạng. Bệnh tật phát sinh vô luận như thế nào cũng đều có quan hệ với sự mất điều hòa về cơ năng điều tiết của thần kinh cao cấp.

Dựa vào quá trình lý luận về hưng phấn và ức chế của vỏ não, Vây-chin-ski qua thực nghiệm cũng đã đúc kết thành nguyên lý: “Vấn đề ức chế là chìa khóa để giải quyết vấn đề về thăng bằng và điều tiết của thần kinh trung ương”. Do đó, trên lâm sàng rất coi trọng việc tăng cường ức chế có tính chất bảo vệ, nâng cao hưng phấn của vỏ não để ức chế quá trình bệnh lý của thần kinh, chữa khỏi bệnh tật. Khi châm cứu, hay nói riêng khi thủy châm, ta đã kích thích vào kinh huyệt. Với kỹ thuật châm tốt mà Đông y gọi là đắc khí, kích thích đó sẽ truyền kinh, truyền xung động vào võ não, rồi từ võ não phản xạ tới các cấp của hệ thần kinh, điều chỉnh mọi hoạt động của cơ quan nội tạng, khôi phục lại trạng thái thăng bằng của cơ thể và bệnh sẽ khỏi. Ngoài ra, trên mặt da có những điểm hoạt động vô cùng nhỏ bé (huyệt vị) là những điểm hoạt động do cơ năng của các cơ quan nội tạng phản ánh lên mặt da, tương tự với các điểm hoạt động điện vị trên mặt da. Khi châm cứu hay thủy châm, ta đã dùng một loạt tác động vật lý và hóa học để kích thích một cách thích đáng vào các điểm hoạt động điện vị, từ đó qua hệ thần kinh thể dịch điều chỉnh lại công năng của các cơ quan nội tạng, đưa lại cho cơ thể một trạng thái thăng bằng và một sự hoạt động sinh lý bình thường.

3.3. Theo dược lý học:

Bất cứ một loại thuốc tiêm nào đã thích hợp với tiêm dưới da hoặc tiêm bắp (trừ những loại thuốc chỉ định tiêm tĩnh mạch) thì dù tiêm vào bất cứ bộ vị nào trên cơ thể đều có tác dụng dược lý như nhau. Thủy châm tức là tiêm vào các kinh huyệt thích ứng, có quan hệ trực tiếp với bộ phận có bệnh.

Ngoài tác dụng của dẫn truyền của huyết dịch, thuốc được tiêm vào kinh huyệt sẽ qua tác dụng của hệ kinh lạc, giúp cơ thể hấp thụ thuốc nhanh, tác động mạnh đến bộ phận có bệnh biến. Kinh nghiệm lâm sàng đã cho thấy rõ:

- Cùng một thứ thuốc, nếu tiêm vào một huyệt vị thích ứng trên cùng một bệnh nhân, tác dụng dược lý mạnh hơn khi không tiêm vào huyệt vị.

- Cùng một thứ thuốc, nếu tiêm vào huyệt vị thích ứng trên cùng một bệnh nhân, chỉ cần liều lượng ít cũng vừa có tác dụng dược lý mạnh như dùng liều lượng thuốc nhiều mà không tiêm vào huyệt vị (đặc điểm này có thể tham khảo để giảm bớt liều lượng thuốc độc, bảo đảm an toàn cho người bệnh).

- Chỉ một thứ thuốc, khi tiêm vào huyệt vị có thể cùng một lúc có nhiều tác dụng dược lý khác nhau. Ví dụ: đau bụng nhiều có thể gây hạ áp. Khi dùng adrenalin thủy châm vào huyệt thiên xu hoặc trung quản thì: tác dụng của kích thích huyệt có thể giảm đau bụng, còn tác dụng bản than adrenalin có thể phòng ngừa hạ huyết áp. Dùng vitamin B1 thủy châm vào huyệt bách hội, phong trì thì: tác dụng của kích thích huyệt có thể làm cho người bệnh hết đau đầu, ngủ được, còn tác dụng của bản thân vitamin B1 thì có tác dụng điều hòa công năng của hệ thần kinh, giúp cho các tế bào thần kinh phát sinh, phát triển, khôi phục lại hoạt động sinh lý bình thường.

Dựa vào 3 điểm nói trên để nghiên cứu tiêm thuốc vào huyệt tức là đã phát huy tác dụng điều tiết của mọi sự hoạt động trong cơ thể con người của hệ thống thần kinh và hệ kinh lạc để nhanh chóng tiêu trừ hiện tượng bệnh lý và khôi phục hoạt động sinh lý bình thường của các nội tạng trong cơ thể con người.

Đăng kí nhận tin