ONG MẬT

ONG MẬT

 

Tên khoa học Apiss spp. Thuộc họ Ong mật - Apidae.

1. Công dụng:

Con người đã sử dụng mật ong từ lâu đời trong nhiều lĩnh vực của đời sống. Công dụng của nó rất đa dạng: làm thức ăn, làm chất bảo quản tự nhiên, làm mỹ phẩm và dùng làm thuốc chữa bệnh.

Mật ong là mật hoa được ong chế biến và cô đặc, thành phần của mật ong rất phức tạp và đa dạng. Trong mật ong có hơn 70 chất khác nhau rất cần thiết cho cơ thể, thành phần chủ yếu của mật ong là glucose và levulose chiếm 60 - 70%. Mật ong đứng hàng đầu trong các loại thực phẩm có nhiều men cần thiết cho cơ thể như: amylase, lipase, catalase... Mật ong còn chứa muối vô cơ và acid hữu cơ như malic, citric...; những chất kích thích sự tăng trưởng hoạt động của cơ thể và nhiều sinh tố như: B1, B2, K, C... Mật ong là loại thuốc bổ truyền thống mà con người sớm biết sử dụng để bồi bổ cơ thể và chữa trị bệnh có nhiều kết quả tốt.

Ngoài mật ra, ong còn cho nhiều sản phẩm ích lợi khác như: sáp ong, sữa ong chúa, phấn ong, keo ong, tầng ong. Sáp ong có tác dụng bổ dưỡng, tăng sức và kích thích tiêu hoá. Sữa ong chúa được coi là thuốc bổ dưỡng cao cấp; dùng cho người mới ốm dậy; người già yếu; trẻ em suy dinh dưỡng; phụ nữ sau sinh bị thiếu máu, ít sữa, kém ăn, mất ngủ; chữa các bệnh lý như đau nhức khớp, hen suyễn, sởi, tăng huyết áp, viêm gan vi rút, suy nhược thần kinh, liệt dương, tàn nhang, trứng cá, mụn nhọt…

1.1. Qua các nghiên cứu cho thấy:

Mật ong có tác dụng bổ dưỡng - có khi người ta chế mật ong thành thuốc tiêm, làm thuốc bổ toàn thân; làm giảm độ acid của dịch vị, đối với loét dạ dày tá tràng ngoài tác dụng cục bộ vào chính vết loét cho mau lành; còn có tác dụng tổng quát tăng lực cơ thể, đặc biệt là hệ thần kinh, nó giảm kích thích thần kinh khiến người bệnh bớt căng thẳng và vui vẻ hơn.

Mật ong tiêu diệt được một số vi trùng và chống nấm. Mật ong trị mụn nhọt và vết thương nhờ có chứa nhiều chất kháng sinh, sự hiện diện của mật ong ở vết thương làm tăng tỉ lệ glutathion là chất giúp vết thương mau lành.

Mật ong trị các bệnh về đường hô hấp trên và phổi như: viêm niêm mạc khí quản, viêm phế quản, viêm hầu họng.

Mật ong có nhiều glucose nên rất tốt đối với cơ tim, người bị các bệnh về tim mạch.

Mật ong có thể dùng trong điều trị một số chứng bệnh về gan, túi mật, thận và thần kinh; mật ong còn là một thứ thuốc an thần tốt, giúp cho giấc ngủ được ngon và làm cho người bệnh đỡ đau đầu.

Nhiều tài liệu ghi cấm dùng mật ong cho người bệnh đái tháo đường. Nhưng các nhà khoa học Trung Quốc đã nghiên cứu chọn lọc trong số 50 vị thuốc Đông y có tác dụng điều chỉnh đường huyết thấy 35 vị thuốc hạ chỉ số đường huyết ở mức 10% so với trị số ban đầu, trong đó 11 vị có tác dụng rõ rệt: mật ong, tang bạch bì, tang thầm, tang diệp, đương quy, ngũ bội tử… Mật ong có tác dụng hồi phục và nâng cao năng lực hoạt động của tế bào beta tuyến tụy làm tăng tiết insulin và cải thiện tính mẫn cảm của tế bào các tổ chức với insulin.

Uống mật ong hoặc hòa với nước trà nóng, sữa nóng hay nước chanh, cam có công hiệu chữa bệnh cảm lạnh.

Mật ong còn có tác dụng dưỡng da, làm mất nếp nhăn ở phụ nữ, giữ độ ấm và tẩy đi những tế bào sừng hoá ở da.

1.2. Theo Đông y:

Mật ong có vị ngọt, tính bình. Có tác dụng làm mát, nhuận phế, trừ ho, nhuận tràng thông tiện, giảm đau, giải độc. Dùng chữa tỳ vị hư nhược, táo bón, ho, đau bụng, giải độc; dùng ngoài chữa lỡ miệng, vết thương; còn dùng làm tá dược chế thuốc hoàn hay các dạng thuốc khác.

2. Ứng dụng:

Loét dạ dày tá tràng: mật ong 1 chén hấp cách thuỷ rồi uống vào trước bữa ăn, uống ngày 3 lần liền trong 1 tháng. Hoặc sắc cam thảo sống 10g với trần bì 6g trong 400ml nước còn 200ml thì bỏ bã, cho thêm vào mật ong 10g chia làm 2 hay 3 lần uống trong ngày.

Tăng huyết áp, táo bón: mật ong 60g, mè đen 50g; rang mè đen cho chín, giã nát rồi thêm mật ong và chừng 200ml nước vào khuấy đều, chia làm 2 lần uống trong ngày.

Nấc cụt liên miên: nước gừng nữa chén đun nóng, hòa thêm một muỗng mật ong, chia 3 lần uống trong ngày.

Tỳ hư, mệt mỏi: sữa bò 300ml, mật ong 30g; cho vào nấu sôi, uống ngày 1 - 2 lần.

Phế hư ho lâu ngày: mật ong 15g, bột xuyên bối mẫu 2g; lấy nước nấu sôi để nguội hoà uống, mỗi ngày uống 2 lần. Hoặc lấy một trái lê to, khoét bỏ lõi, rồi cho 30g mật ong vào trong trái lê, hấp chín ăn.

Trẻ em bị tưa lưỡi: dùng gạt sạch quấn vào ngón tay, thấm mật ong, thoa đi thoa lại miệng lưỡi nhiều lần.

Viêm gan vi rút: mật ong và sữa ong chúa lượng bằng nhau, uống mỗi ngày 20g, dùng liên tục 1 tháng.

Dưỡng da: rửa mặt bằng nước ấm cho nở các lỗ chân lông, rồi dùng mặt nạ mật ong đắp trên da mặt, sau đó dùng nước lạnh rửa mặt cho trôi lớp mặt nạ đi, làm như vậy 2 - 3lần/tuần, sẽ được một lớp da trắng hồng, không nhăn

3. Lưu ý:

Mùi và vị, cũng như tính chất và giá trị của mật ong thay đổi theo từng vùng, phụ thuộc vào các loại hoa trong vùng và từng thời kỳ lấy mật.

Mật ong thường dùng liều 20 - 50g/ngày; có thể dùng tới 100 - 150g, nhưng với liều này có thể nhuận tràng. Người ta khuyên không nên dùng mật ong để quá 2 năm.

Khi uống mật ong nên pha loãng với nước sôi để nguội hoặc nước ấm, không dùng nước nóng quá 500C.

Trong cơ thể, việc đồng hóa hydrat cacbon là tùy khả năng của từng người; một số người dùng mật ong đã gây cho dạ dày hiện tượng thẩm thấu mạnh khiến lượng nước trong cơ thể bị tiêu hao, đau dữ dội; với trẻ em, nếu không “hợp” thì 1 thìa nhỏ mật ong cũng làm nổi mề đay, ngứa và rối loạn tiêu hóa.

Không dùng mật ong cho người bị giãn tĩnh mạch dưới da, xơ gan, phụ nữ mang thai. Không cho trẻ dưới 12 tháng tuổi uống mật ong.

Không dùng mật ong cùng với đậu phụ, tỏi, hành, cá gáy, thì là, cơm, thịt bò.

Đặc biệt, mật ong có thể có chất độc nếu ong hút mật ở những cây có độc như: hoa phụ tử, hoa cà độc dược… Một số nơi, người ta đã chứng kiến những vụ ngộ độc do ăn mật ong có độc.

Đăng kí nhận tin