NHỮNG QUAN ĐIỂM LỚN CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

NHỮNG QUAN ĐIỂM LỚN CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

Tư tưởng và sự nghiệp Lãn Ông gắn liền với thực tế xã hội, với những điều kiện đương thời. Lãn Ông là một nhân vật đặc biệt, tất nhiên có nhiều quan điểm tốt đẹp để lại cho đời sau.

1. Về cuộc sống:

Lãn Ông sinh ra và sống trong một thời đại có tình hình chính trị không ổn định. Cả nước chia ra Đàng Ngoài và Đàng Trong. Đàng Ngoài có chúa Trịnh phò Lê, có nhiều cuộc nổi dậy. Thêm vào tình trạng trên là nạn trộm cướp, cường hào rất hỗn loạn. Do tình hình chính trị khổng ổn định, phe phái này chèn ép phe phái khác, có tình trạng người ngay chết oan. Tư tưởng sĩ phu hoang mang nhiều người không tham gia chính cuộc, rút lui về vùng thôn dã ở ẩn. Cũng có người tự cho mình là “cao sĩ” rồi mục nát với cỏ cây. Lãn Ông hồi nhỏ ở kinh đô, đã cầm quân đánh trận, từng sống trong hàng nho sĩ đã thổ lộ tâm trạng “cái chí bôn chen trong trường danh lợi mình đã vứt bỏ từ lâu” (Y huấn). Trong cái hoang mang chung của nhà nho, Lãn Ông tìm hướng đi trong dịp dưỡng bệnh tại Rú Thành, vào hồi hơn 30 tuổi. “Nghề Y thiết thực ích lợi cho mình, giúp đỡ được mọi người”. Đó là một hướng đi tích cực đúng đắn, thiết thực, cao quý. Hướng đi ấy có tính chất lý tưởng hoá bản tính và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của ông từ đó về sau.

Chí hướng đó đã trở thành quyết tâm lớn: “Tôi đã hiến thân cho nghề thuốc, nên lúc nào cũng muốn làm hết sức mình trước thuật cho nhiều để dựng cờ hồng trong ngành y”.

Bản thân ông trước 30 tuổi chưa làm nghề y, cho nên làm nghề y là hướng mới về sau. Và suốt 40 mươi năm còn lại, ông đã phải nỗ lực rất nhiều để xây dựng sự nghiệp, có tính tích cực, có ích cho xã hội. Bởi có quan điểm sống đúng đắn như vậy mà các quan điểm khác về nghề nghiệp, phục vụ cũng đều có nhiều đặc điểm.

2. Về nghề nghiệp, ý thức phục vụ:

Lãn Ông nhiều lần nhấn mạnh “Nghề thuốc là nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân...”. Từ đó mà các mặt đạo đức, trách nhiệm, động cơ, thái độ, tác phong, nghiệp vụ... của ông đều đạt tới một tầm cao đặc biệt.

Ông nói: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người ta, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người, làm phận sự của mình mà không cầu lợi kể công” và “Thầy thuốc là người bảo vệ sinh mạng của con người, tử sinh họa phúc đều ở tay mình quyết định”.

Lãn Ông thể hiện rất rõ tính nhân đạo trong từng khâu của nghiệp vụ từ chẩn đoán, suy luận, điều trị đến dùng thuốc… Ông không nề hà khó nhọc, dù đêm hôm, dù đang ốm yếu, dù đường xa, qua núi rừng. Ông thăm khám chu đáo rồi mới ra đơn, kể cả trường hợp có thể lây lan hoặc bệnh như ghẻ lỡ. Đáng dùng thuốc gì ông dùng thuốc đó dù là thứ đắt tiền, dù biết rõ bệnh nhân sau này không có khả năng trả. Có trường hợp bệnh nhân khoẻ rồi, nhưng nghèo không có gì sinh sống, ông còn cung cấp thêm gạo tiền. Ông nói: “Phần mình phải hết sức suy nghĩ, đem hết khả năng để làm kế tìm cái sống trong cái chết cho người ta”.

Đối với thầy thuốc “cái bệnh” là đối tượng số 1, bệnh nguy cần chữa trước, bệnh chưa nguy có thể để chậm lại sau. Tùy trường hợp mà giải quyết kịp thời và chu đáo. Do xác định được đối tượng số một đó mà Lãn Ông đặt sang bên những điểm khác như giàu nghèo, quyền uy, định kiến, sở thích, thuật số...

3. Về trước tác và truyền thụ:

Người viết sách có nhiều động cơ và thái độ khác nhau, đúng sai hay dở khác nhau, Lãn Ông có quan điểm sống và ý thức phục vụ như trên nên động cơ và mục đích của ông vẫn đúng. Ông muốn “Thâu tóm hàng trăm cuốn sách, đúc thành một bộ để tiện xem, tiện đọc...”. Sách thuốc như rừng, lời bàn lắm ngả, yêu cầu có một bộ sách tóm gọn là một yêu cầu về học thuật của thời đại. Sách của ông viết xong đến đâu đã có người chép tay truyền nhau.

Điểm đặc biệt trong việc soạn sách là Lãn Ông xác định được quan điểm sau: “Tôi nghĩ việc trước thư lập ngôn không dễ”. Ngạn ngữ có câu: “Cho thuốc không bằng cho phương”, vì thuốc chỉ cứu được 1 người, cho phương thì giúp đỡ người ta vô tận. Nhưng nghĩ cho kỹ, nếu trong phương có một vị không đúng, thì hàng trăm nhà chịu tai hại. Huống chi viết lên sách, mỗi lời nói đều thành khuôn phép nhất định khó mà thay đổi được, nhỡ trong câu có điều sai lầm thì tai hại còn hơn những bài thuốc nhiều”. Kê đơn chữa bệnh nếu có chỗ sơ xuất, chỉ chết một người bệnh đó và thầy thuốc có thể rút kinh nghiệm tránh cho lần khác. Khi giảng dạy thầy nói có điều sai, một số người nghe sau về chữa bệnh gặp điều sai đó cũng sẽ rút kinh nghiệm, nhưng số người bị tai hại sẽ nhiều hơn. Còn như việc viết sách cho hàng ngàn, hàng vạn... người đọc thì tai hại sẽ vô cùng, điều tai hại này cũng dây dưa từ đời này qua đời khác. Viết sách quan hệ như vậy, không thận trọng sao được, trách nhiệm người cầm bút lớn lao như vậy, viết cẩu thả sao được. Không những sách chuyên môn và các loại sách khác cũng vậy.

Với tinh thần thận trọng như vậy, Lãn Ông còn đem hết tâm huyết của mình ra. Vắt hết ruột gan, moi tận đáy lòng... rõ ràng tinh thần trách nhiệm xây dựng học thuật và ý thức phục vụ của ông thật là triệt để và cao cả.

Trong việc truyền thụ nghề nghiệp cho môn đệ, ông cũng rất chu đáo, ông chủ trương dạy bằng nhiều lối để người học nắm vững chuyên môn.

4. Về thừa kế và học tập:

Ồng nêu cao tinh thần khổ học, có thể thấy rõ ở một đoạn văn trong quyển Y hải cầu nguyên: “Tìm hiểu sách vở của khắp các nhà, nghiên cứu ngày đêm, mỗi khi được một câu cách ngôn của hiền triết xưa ghi lại tại chổ biện luận kỹ càng, thức nhấp luôn suy nghĩ. Phàm những chân lý ngoài lời nói, phần nhiều nảy ra trong lúc suy tưởng, nhân đó suy rộng ra, càng ngày càng tinh vi, như chiếc vòng không cùng tận …”.

Học tập có chọn lọc: Hai chữ “Tâm lĩnh” trong tên bộ sách cũng nói lên cách học có chọn lọc của ông. Ông đã lĩnh hội được những điều hay để đưa vào sách. Ý của ông muốn “chắt lọc lấy những tinh hoa của các sách, những vốn quý của dân gian về y học để đưa vào một bộ sách tóm gọn để tiện xem, tiện đọc...”. Chẳng hạn trong số lượng lớn bài thuốc cũ, ông chọn một số bài mà ông cho là có nhiều hiệu quả, ông đã có nhiều kinh nghiệm vận dụng, viết thành một quyển gọi là “Tâm đắc thần phương”.

Học tập có sáng tạo: ông nghiên cứu sách xưa, nhưng có nhiều chỗ ông không rập khuôn hoàn toàn như xưa. Ông đã có đóng góp những chỗ mới về lý thuyết, về phương thang, Ông lập luận riêng về bệnh ngoại cảm ở nước ta, ông đặt ra ba phương giải biểu và sáu phương hoà lý; ông đã sáng chế ra một số bài mới ghi lại ở quyển “Hiệu phỏng tân phương”.

Học tập có phương pháp: Trong việc học tập cần phải có đọc rộng, tham khảo nhiều. Khi đã có tư liệu nhiều rồi phải biết sắp xếp tóm gọn cho hệ thống thì mới tránh được bệnh tản mát, hoặc lộn xộn mâu thuẫn nhau. Ông nói: “Học được rộng biết được nhiều điều xa lạ mà quy hẹp lại thật đơn giản và sát đúng mới là đặc sắc trong y thuật”. Giữa học và hành, ông khuyên phải có sự “biến thông linh hoạt”.

Học tập với tinh thần suy nghĩ độc lập: Ông thừa kế sách xưa một cách toàn tâm toàn ý. “Khi có chút thì giờ nhàn rỗi là nghiên cứu các sách thuốc xưa nay, luôn luôn phát huy biến hoá, thâm nhập được vào tâm, thấy rõ được ở mắt thì tự nhiên ứng vào việc làm mà không sai lầm”.

Tuy nhiên, ông vẫn có tinh thần suy nghĩ độc lập, ông cũng tự hào với những phát kiến độc đáo. Một vấn đề được đặt ra: Có nên công bố những thành quả của sự suy nghĩ độc lập trong học tập ấy không? Ông nghĩ: không công bố là một thứ khiêm tốn giả tạo, giữ làm của riêng ích kỷ, hoặc bỏ hoài phí cái hay, người khác không được biết tới. Công bố thì lại có người cạn nghĩ cho là hợm mình, tự cho mình có phần hơn người xưa. Ông tránh được cái sáo đó và quyết định “Tôi thà mắc tội với tiền bối, chứ không phụ cái sở học của mình”, “... mong làm sáng tỏ thêm những chỗ văn chưa sáng nghĩa, những phần lý luận trước đây chưa đầy đủ”, “... lưu lại một chút khổ tâm của tôi trong việc nghiên cứu y học”. Điều đó phần nào nói lên lòng quả cảm, đồng thời sự tích cực xây dựng học thuật của ông, bất chấp những thông tục không cần thiết.

Với tinh thần và phương pháp học tập chịu khó, chọn lọc, sáng tạo và suy nghĩ độc lập như trên, ông nắm vững học thuật và có sự xây dựng, đóng góp to lớn về các mặt.

5. Phong cách đối xử:

Trong trước tác của mình, Lãn Ông cũng để lại những phong cách đối xử rất xác đáng, cần thiết cho một người thầy thuốc chân chính.

Đối với mọi người nói chung: “Đối với người lớn tuổi thì mình phải kính trọng, người học giỏi coi như bậc thầy, người kiêu ngạo thì mình nhân nhượng, người kém mình thì diều dắt họ học tập”, ông luôn luôn khiêm tốn, không hề tự cao tự đại, khoe khoang, luôn tranh thủ sự đồng tình của người khác để cầu học hoặc thu kết quả trong việc làm. Đối với bạn đồng nghiệp cũng vậy, chẳng hạn có dịp gặp người bạn ở nhà người bệnh, có phải tranh luận thì ông cũng để tính mạng của bệnh nhân lên trên hết mà bàn cho ra lẽ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng thống nhất nhận định, thống nhất cách điều trị.

Đối với người bệnh: Ông tận tình cứu chữa, đối với bệnh gấp thì cứu bệnh như cứu hoả, đối với bệnh nguy thì ông tìm hết cách để cứu vãn, cho đến khi âm dương ly thoát mới đành chịu thôi. Ông không tin thuyết định mệnh, dù thất bại trong trường hợp nào đó ông cũng không đổ tại số mệnh như nhiều thầy thuốc khác. Kể cả trường hợp có oán thù, nếu có, cũng “không vì oán thù mà khác chí...”. Ông quan tâm nhiều đến người nghèo, ông nói: “Nhà giàu không thiếu gì thầy thuốc, còn nhà nghèo khó lòng rước được lương y, vậy cần lưu tâm cứu chữa cho những người này thì họ mới sống được”.

Đối với phụ nữ: Ông giữ nghiêm túc, triệt để. Ông khuyên: “Khi xem bệnh cho đàn bà, con gái, đàn bà goá, ni cô cần phải có người nhà ở bên cạnh mới bước vào phòng mà xem bệnh, để tránh hết sự nghi ngờ. Dù cho đến hạng người buôn son bán phấn cũng vậy, cũng phải đúng đắn, coi họ như con nhà tử tế, chớ nên đùa cợt mà mang tiếng bất chính, sẽ bị hậu quả về tà dâm”.

Đối với việc nhận quà cáp: Thông thường ai giúp mình một việc gì, thì mình cảm ơn người đó, huống hồ bệnh nặng, nguy, hoặc có thể chết được người ta cứu cho thì ít nhiều mình có mang ơn. Nhân dân ta vốn có tính thuần hậu, không khi nào quên ơn người đã giúp mình; muốn bày tỏ lòng chịu ơn không thể nào không trả ơn bằng lời nói, bằng vật chất, hoặc bằng việc làm; điều đó được coi như là hoàn toàn chính đáng và hợp tình, hợp lý, mà người bệnh không làm, luôn tự thấy băn khoăn. Nhưng điều đáng chê trách là đôi khi món quà quá đáng đối với sự việc, hoặc quá lớn đối với khả năng của người bệnh, hoặc kèm theo những động cơ không đúng, hoặc đem lại những hậu quả không trong sạch, lành mạnh. Những món quà không chính đáng có thể hạ thấp nhân phẩm thầy thuốc, biến thầy thuốc thành kẻ phụ thuộc, người nô lệ của vật chất hoặc của quyền uy. Điều đó hoàn toàn trái với ý kiến của Lãn Ông “Nghề thuốc là thanh cao, ta càng phải giữ gìn khí tiết cho trong sạch ...”, “Khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì người nhận quà hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giàu sang tính khí thất thường, mình cầu cạnh hay bị khinh rẻ...”.

Nói chung, theo Lãn Ông phương châm xử thế của người thầy thuốc là “Quên mình cứu chữa người ta, ngoài ra tất cả chỉ là mây trôi”.

Những điều trên đây rút ra từ trước tác của Lãn Ông có thể gọi là mẫu mực và quý báu.

Đăng kí nhận tin