MỒ HÔI VÀ NƯỚC MẮT

MỒ HÔI VÀ NƯỚC MẮT

 

Mồ hôi và nước mắt là hai loại dịch thuộc ngũ dịch (mồ hôi, nước mắt, nước mũi, nước bọt, nước dãi). Trong bài Nhơn Thân Phú có ghi: “Tâm chi dịch tại hạn, can chi dịch tại khấp” có nghĩa: Mồ hôi là dịch của tâm, nước mắt là dịch của can. Trương Chí Thông giải thích: mồ hôi do huyết sinh ra, mà tâm lại làm chủ về huyết dịch, nên mồ hôi gọi là tâm dịch. Còn nước mắt là dịch của can, vì cho rằng can khai khiếu ở mắt, tinh khí của can sẽ vinh nhuận ở mắt mà tạo thành nước mắt nên gọi là can dịch.

Tại sao chúng có vị mặn? Mồ hôi và nước mắt đều là thuỷ dịch, mà thận thì chủ về thuỷ, vị mặn lại là thuộc tính của hành thuỷ, vì vậy chúng có vị mặn.

Theo Tây y, mồ hôi được tiết ra từ các tuyến mồ hôi nằm ở khắp nơi ở trên da. Thành phần chính của mồ hôi gồm 99% là nước, 1% là muối khoáng và một số chất hữu cơ từ cơ thể tiết ra. Mục đích chính của mồ hôi là làm thải nhiệt cho cơ thể sinh ra trong quá trình hoạt động. Nói theo cách của Đông y, thì mô hôi là tâm dịch, mà tâm thuộc về hoả, nên hoả sẽ theo mồ hôi mà đi ra. Do vậy khi ra mồ hôi có thể giải được “nhiệt”. Khi bị cảm nhiễm, cơ thể sẽ phát nhiệt vì “bì mao” đóng kín mà không thoát mồ hôi ra được. Cho nên phương pháp giải nhiệt để chữa cảm nhiễm là dùng phép “tân lương phát hãn” (thuốc có vị cay và mát để làm ra mô hôi), hoặc “tân ôn phát hãn” (thuốc có vị cay và ấm để làm ra mồ hôi).

Lúc bình thường thì mồ hôi tiết ra một lượng nhỏ đủ để làm ẩm và mát cho da. Mồ hôi tăng tiết khi trời nắng, khi làm việc nhiều. Tuy nhiên khi ra mồ hôi nhiều sẽ làm cơ thể mất nước và cảm giác khát sẽ xuất hiện báo hiệu cho ta cần phải uống nước để bù lại. Trong trường hợp này Đông y nói rằng, mồ hôi ra quá nhiều làm “hao tổn tân dịch” mà sinh ra “nhiệt” ở bên trong. Đó là một trong những chứng gọi là “âm hư sinh nội nhiệt” và phép điều trị thường là “sinh tân thanh nhiệt” (dùng những vị thuốc sinh tân dịch mà trừ nhiệt) hoặc “tư âm thanh nhiệt” (dùng thuốc tư dưỡng phần âm mà trừ nhiệt). Cần chú ý rằng “sốt”của Tây y là khi nhiệt độ cơ thể tăng trên 370C, thông thường là do nhiễm khuẫn hoặc nhiễm siêu vi, khác với chứng “nhiệt” của Đông y là bao hàm cả “sốt” và cả các triệu chứng về nhiệt như: khát nước, da nóng, thích uống nước lạnh, cầu bón, tiểu vàng… mà nhiệt độ cơ thể vẫn ở mức bình thường

Sự tiết mồ hôi còn do chi phối bởi hệ thần kinh thực vật. Rối loạn hệ thần kinh này hoặc các tình huống như: lo âu, hồi hộp, căng thẳng… cũng làm ra mồ hôi nhiều bất thường. Điều này cũng giống như quan niệm của Đông y, “Tâm tàng thần” (Nếu như “thần” được xem như bao hàm cả hệ thần kinh của Tây y), những triệu chứng rối loạn ở tâm như: “kinh quý, chính xung” (sợ sệt, hồi hộp), bất an, mất ngủ… cũng làm ra mồ hôi bất thường, phép để điều trị chứng này là dưỡng tâm. Ngoài ra còn có “đạo hãn âm hư, tự hãn dương hư” (ra mồ hôi trộm do âm hư, tự ra mồ hôi do dương hư), phép điều trị sẽ có phần khác nhau. Nhưng dù âm hư hay dương hư cũng phải chú ý đến tạng tâm, mà cổ nhân có câu: “Đa hạn dưỡng tâm vưu vi hỉ dụ” (Nhơn Thân Phú) có nghĩa: ra mồ hôi nhiều thì dùng phép dưỡng tâm, đó là lời chỉ bảo hay vậy!

Theo Tây y, lúc bình thường, không khóc vẫn có một ít nước mắt tiết ra từ tuyến lệ. Nước mắt giúp cho mắt luôn được nhuận ướt và còn có các kháng thể, lysozym có tính sát khuẩn giúp làm sạch mắt. Nước mắt được thoát đi theo lệ đạo (đường dẫn nước mắt), dẫn xuống hốc mũi, rồi xuống họng. Nên khi nhỏ thuốc vào mắt, ta sẽ thấy có vị đắng ở họng. Đó cũng là cách đơn giản để chẩn đoán chứng chảy nước mắt sống do tắc lệ đạo, và để phân biết với “Hội chứng nước mắt cá sấu” là chảy nước mắt bất thường, không do tắt lệ đạo, mà do bất thường của sợi thần kinh chi phối tuyến nước bọt, lại chia nhánh đến chi phối tuyến lệ. Vì vậy người bị hôi chứng này sẽ “khóc” mỗi khi ăn, hoặc nghĩ đến chuyện ăn! Còn khóc do cảm động là tuyến lệ tăng tiết, nước mắt không kịp chảy hết vào lệ đạo mà trào ra ngoài, chảy xuống trên má. Khóc là một “đặc ân” của tạo hóa dành cho loài người, biểu hiện nhiều trạng thái của tình cảm: vui buồn, giận hờn, thương nhớ, đau khổ hạnh phúc, sợ hãi, uất ức… Khóc để “vơi đi những nỗi niềm chất chứa trong lòng” (Kiến thức vui về cơ thể con người - BS Nguyễn Minh Tiến).

Trong Đông y, nước mắt khi khóc là dịch của can, cũng không ngoài do: hỷ (vui), nộ (giận), bi (buồn), tư (nghĩ), khủng (sợ)… Nhưng khi đang giận (nộ là chí của can) thường không ai khóc bao giờ, chỉ khóc khi nào “bi” (buồn) đan xen vào (bi là chí của phế). Đó chính là lúc “bi thắng nộ” (Nội Kinh). Đây là quy luật ngũ hành tương khắc: bi của phế kim khắc nộ của can mộc. Khi tâm trạng có nỗi niềm ấm ức, tính của can là thư thái, thông đạt sẽ có nhiệm vụ giải toả trạng thái tâm lý ức chế này. Hoặc can sẽ “giải uất” bằng “nộ chí”: la hét [“hô” (la hét) là âm thanh của can - Nội Kinh] hoặc điều khiển gân (can chủ cân) để “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”… hoặc can sẽ nhờ “bi” của phế khắc “nộ” của can mà nước mắt tuôn trào (tiếng khóc là âm thanh của phế - Nội Kinh) bấy giờ “buồn nhiều hơn là giận”, nhưng nước mắt sẽ làm “xoa dịu đi những nỗi đau”…

Bất luận Đông - Tây y, mồ hôi và nước mắt từ lâu đã nói lên công lao nhọc nhằn và những nỗi đau đời thường. Nhưng cũng chính nó, mồ hôi lại là cảm giác khoan khoái khi ta hoàn thành công việc, và nước mắt là niềm hạnh phúc khi ta vượt qua nỗi đau.

Mồ hôi và nước mắt cũng là chung thủy của nhau, kết thúc và bắt đầu. Những giọt mồ hôi của người mẹ khi lâm bồn, lúc “vượt cạn”, cũng chính là lúc đứa trẻ “oe oe” cất tiếng khóc chào đời. Có lẽ nó cho rằng “Đời là bể khổ”!!! Nhưng mọi người thì rất vui mừng vì có nó trên đời, trong đó có những giọt mồ hôi của “bà mụ” cũng góp phần mong cho trẻ được khóc. Vì như vậy có nghĩa là: “mẹ tròn con vuông”. Rồi cứ thế một trọng trách khác lại tiếp tục và một cuộc đời mới lại bắt đầu với những buồn vui phía trước… Đến lúc xuôi tay nhắm mắt, những giọt mồ hôi sẽ mãn nguyện thanh thản ra đi, thì tin rằng bên cạnh luôn có những giọt nước mắt để tiễn đưa…

Mồ hôi và nước mắt lắm nhọc nhằn nhưng cũng nhiều vinh quang!

Đăng kí nhận tin