![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
"MIẾNG TRẦU LÀ ĐẦU CÂU CHUYỆN"
Tục ăn trầu của dân tộc ta đã có từ lâu đời, ''Miếng trầu là đầu câu chuyện'', khi gặp nhau lạ bỗng trở nên quen nhờ miếng trầu:
Trầu cau là biểu tượng của tình yêu, hôn nhân. Yêu nhau trai gái ngày xưa trao cho nhau miếng trầu thay cho lời khó nói, gởi gắm cả tâm tư, tình cảm của mình trong đó. Trong tất cả các cuộc hôn nhân, dù ở bất cứ địa vị, hoàn cảnh nào đều nhất thiết phải có trầu cau, đây là một nghi thức đậm đà bản sắc dân tộc. Trong dân gian, trầu được têm thành nhiều kiểu: trầu cánh phượng, trầu quế, trầu cánh kiến… Cách têm trầu còn là thước đo sự khéo léo của người phụ nữ.
1.1. Miếng trầu thường gồm có 3 thành phần trầu, cau và vôi
Trong quả cau có nhiều tanin và một alcaloid là arecolin làm chậm nhịp đập của tim, làm tăng nhu động ruột.
Vôi ăn trầu là vôi tôi để lâu, là hỗn hợp Ca(OH)2 và CaCO3, cho nên người rành ăn trầu không ăn vôi mới.
1.2. Phối hợp 3 chất trầu, cau và vôi, tạo thành bài thuốc có nhiều tính chất trị liệu cũng như tạo ra nhiều hiện tượng hoá học và dược lý
Nước trầu cau có màu đỏ là do phản ứng tạo màu giữa vôi với các hoạt chất của trầu.
Arecolin trong hạt cau có tính chất kích thích tuyến nước bọt, làm chảy nước dãi, việc này gây phiền phức nếu ăn trầu ở nơi công cộng.
Arecolin làm chậm nhịp tim, tuy nhiên khi ăn trầu thì tính chất này bị triệt tiêu do có sự hiện diện của muối vôi (có canxi). Ngày xưa chưa ai biết làm thí nghiệm dược lý, chưa biết chất vôi ức chế tác dụng làm chậm nhịp tim của arecolin, vậy mà tổ tiên chúng ta đã biết kết hợp vôi trong ăn trầu để triệt tiêu tác dụng có hại của arecolin có trong cau.
Miếng trầu làm tăng tiết dịch tiêu hoá, nên người ăn trầu thì: ăn uống dễ tiêu; ít bị đầy chướng, ợ hơi, sình bụng hay táo bón.
Miếng trầu bảo vệ hàm răng: do lá trầu có tính chất sát trùng, làm cho chân răng không bị sưng; chất chát làm cho nướu răng ôm sát chân răng, làm hàm răng cứng không lung lay; nhai trầu là một động tác tập luyện hàm răng.
Người ăn trầu ít bị nhiễm trùng và ký sinh trùng ở đường tiêu hoá.
1.3. Tác hại
Khi ăn trầu dùng nhiều vôi có thể bỏng niêm mạc miệng.
Bã trầu dính kẽ răng làm mất thẩm mỹ.
Nước trầu làm rõ các vết nhăn trên làn môi, làm khô môi.
Khạc nhổ luôn miệng gây phiền phức và bực mình cho người xung quanh.
Nước trầu nồng và chát, làm cho vị giác hết tinh vi; khả năng nhận biết các vị khác của vị giác bị giảm.
Tuyến nước bọt, niêm mạc miệng và cổ họng bị kích thích liên tục, có thể bị ung thư.
Sau khi ăn trầu nên đánh răng, súc miệng.
2. Trầu
Còn gọi là trầu không. Tên khoa học Piper betle L. Thuộc họ Hồ tiêu - Piperaceae.
2.1. Công dụng
Thường dùng lá trầu để đánh gió chữa cảm mạo, rửa vết thương (sát khuẩn), lở loét, các chứng đau bụng do lạnh, đầy hơi, nấc cụt …
Trầu có vị cay nồng, mùi thơm mạnh, tính ấm. Có công năng trừ phong thấp, trừ hàn, hạ khí, tiêu đàm, tiêu viêm, sát khuẩn. Trị hàn thấp gây nhức mỏi, cảm mạo, đau bụng, đầy hơi, vết thương nhiễm khuẩn, có mủ, đau nhức, hen suyễn, nhiều đờm, khó thở, mụn nhọt, bỏng, hắc lào, mày đay, viêm răng lợi, viêm họng... Các nghiên cứu hiện đại xác nhận lá trầu có tác dụng kháng sinh mạnh, chất kháng sinh bay hơi của lá trầu diệt được nhiều loại vi khuẩn.
2.2. Ứng dụng
- Gút: mỗi sáng thức dậy dùng lá trầu tươi 100g , xắt nhuyễn ngâm vào trong một trái dừa xiêm vừa vạt nắp gáo; nên chắt bớt một chút nước dừa ra để khỏi bị tràn khi cho lá trầu nhuyễn vào, sau đó đậy nắp lại và ngâm đúng 30 phút, rồi chắt ra ly, uống một mạch. Không ăn sáng ngay mà chờ đến khi nước dừa, trầu được cơ thể hấp thu hoàn toàn, lúc đi tiểu trở lại rồi mới ăn sáng. Uống 1 tháng liền.
- Đau mắt đỏ, chắp, lẹo: trầu 3 lá, dâu 5 - 10 lá; vò nát, cho vào ca, đổ ngập nước sôi vào để xông hơi mắt đau; xông mỗi lần 5 - 10 phút, ngày 2 lần; thuốc giúp chóng hết viêm, dịu mắt.
- Hôi miệng: dùng một nắm lá trầu khoảng 10g, xắt nhỏ, vò nhẹ, ngâm trong 1 lít nước sôi để nguội, cất trong tủ lạnh hoặc để chỗ thoáng mát, tránh ánh sáng trực tiếp, hằng ngày súc miệng bằng nước này 4 lần.
- Đau đầu: cuống lá trầu 7 - 10 cái giã nhuyễn, lấy nước cốt pha mật ong uống, đồng thời lấy 2 đầu nhọn của lá trầu nhai giập đắp vào hai bên thái dương.
- Nước ăn chân: lá trầu không 8g, lá ráy 50g xắt nhỏ; đổ ngập nước, nấu sôi để nguội, ngâm chân. Lá trầu 1 nắm, cho vào nước, nấu sôi để nguội ngâm chân.
Ảnh: Giàn trầu của mẹ tôi trên bìa 1 sách "Thuốc ở quanh ta".