![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
(Phần 3 và hết)
(Trích từ sách "Chữa bệnh cho mẹ", BS Lê Thân, NXB Đà Nẵng 2020)
11. Dấu giác:
Các vết hằn nổi sau khi giác hơi gọi là dấu giác, do áp suất âm trong ống giác kéo và định hình các tổ chức dưới da trong thời gian nhất định. Dấu giác và những trạng thái sau khi giác thường không được chú ý và bỏ qua mặc dù có thể báo hiệu triệu chứng bệnh, góp phần củng cố quá trình biện chứng luận trị theo Đông y, ghi nhận có thể tạm phân thành các nhóm màu sắc, nhóm ung nhọt và nhóm triệu chứng khác như sau:
11.1. Nhóm màu sắc:
- Dấu giác thường xuất hiện màu đỏ, đỏ tía hoặc thâm đen, màu sắc phân bố kín hoàn toàn, thành mảng hoặc phát điểm ban trong dấu giác; đau hay ngứa cũng thường xuất hiện, kèm theo các mức độ nhiệt tại vùng giác mà thầy thuốc có thể cảm nhận được. Những thay đổi này là những tác dụng điều trị của giác hơi, kéo dài từ một đến vài ngày, điều này vô hình trung gây tâm lý e ngại về mặt phẩm mỹ. Một số biểu hiện về màu sắc trên bề mặt dấu giác phản ánh trình trạng bệnh theo Đông y ghi nhận như sau:
- Dấu giác tím hoặc thâm đen hoàn toàn là biểu hiện thường thấy khi máu huyết cung cấp không đủ, hành kinh không thông, ứ huyết.
- Dấu giác xuất hiện mảng đốm tím thường gặp ở người bệnh hàn ngưng huyết ứ, tùy vào vị trí mảng ở trung tâm hay tập trung rìa dấu giác ghi nhận như “hình nhẫn”.
- Dấu giác xuất hiện rải rác điểm tím thường gặp khi có khí trệ huyết ứ, cách phân bố có thể tập trung thành đám hoặc phân bố đều theo lỗ chân lông.
- Dấu giác có điểm đen phân bố phần rìa dấu giác biểu thị chứng vi hàn hoặc toàn bộ dấu giác chứng tỏ đã cảm thụ phong hàn nặng.
- Dấu giác đỏ tươi thường gặp ở chứng âm hư, khí huyết lưỡng hư hoặc âm hư hỏa vượng. Màu sắc có thể đậm ở trung tâm nhạt dần ra ngoài hoặc ngược lại, hoặc phân bố đều phản ánh từng tình trạng bệnh khác nhau. Dấu giác màu đỏ thẫm ghi nhận trên người bệnh lipit máu cao có nhiệt tà ủng thịnh.
- Dấu giác xám tro ở trung tâm phần rìa sáng màu hơn vùng da bình thường, chạm vào không ấm - dấu hiệu chỉ phát hiện bằng giác hơi truyền thống nhiệt độ, thường sẽ cao hơn vùng da bên ngoài do tác động nhiệt trong quá trình đốt ống giác - gặp ở người bệnh hư hàn hoặc thấp tà.
11.2. Nhóm ung nhọt:
- Là những biểu hiện xuất hiện trên bề mặt dấu giác như: mụn nước, phù nề và hơi ẩm, ghi nhận ở người bệnh bị thấp thịnh hoặc cảm thụ ẩm thấp thành bệnh.
- Đôi khi màu sắc của mụn nước có thể giúp thầy thuốc khai thác triệu chứng bệnh, mụn nước có máu đỏ hoặc đỏ tía cho thấy phản ứng bệnh lý ở người bệnh có chứng thấp kèm huyết ứ.
11.3. Nhóm triệu chứng khác:
- Được ghi nhận thông qua cảm nhận của người bệnh sau khi giác:
- Dấu giác ngứa gặp trên người bệnh có phong tà hoặc thấp tà, tình trạng ngứa liên tục trong một khoảng thời gian hoặc chạm vào gây ngứa giúp xác định tính chất và vị trí của bệnh.
- Xuất hiện hơi nước bám vào thành trong ống giác, biểu hiện nhẹ như màng sương hoặc đọng lại thành dòng, hiện tượng này cho thấy tạng phủ tương ứng với vị trí giác có thấp khí; người ít vận động, mùa thu cảm nhiễm ngoại thấp, uống bia rượu quá mức, môi trường ở không thông thoáng.
- Dấu giác xuất hiện bọt nước kết thành từng đám, có thể nhiễu do ống giác tiếp xúc kém với bề mặt da, nhưng nếu loại trừ được yếu tố này thì dấu bọt nước là chỉ điểm cho thể nội thấp khí trọng, màu sắc của bọt nước quyết định tình trạng bệnh, bọt màu hồng biểu hiện phản ứng của thấp nhiệt độc.
12. Thời gian và mức độ:
- Thông thường, thời gian đặt ống giác là 10 - 15 phút. Ngắn nhất là 5 phút, dài nhất là 30 phút.
- Nếu như gặp phải trường hợp người bệnh cảm thấy đau đớn và khó chịu dữ dội, thì có thể gỡ ống giác ra sớm hơn. Nếu như người bệnh cảm thấy thoải mái dễ chịu, lực hút của ống giác không lớn lắm, hơn nữa vùng da cục bộ có nhiều cơ, thì thời gian đặt ống giác có thể kéo dài thêm một chút.
- Người có thể chất suy nhược gầy yếu quá, lực giác hơi phải nhỏ, thời gian giác hơi ngắn, số lượng đặt lọ giác hơi ít. Người có thể chất khỏe khoắn mập mạp, thì có thể giác hơi mạnh hơn, số lượng nhiều hơn và thời gian lâu hơn. Người mới lần đầu tiên được giác hơi thì thời gian giác hơi cũng nên ngắn. Người thường xuyên áp dụng giác hơi để chữa bệnh, thì thời gian giác hơi sẽ dài hơn.
- Muốn gây hưng phấn, nâng cao trạng thái công năng của cơ thể, thời gian giác hơi nên ngắn, lực giác hơi nên nhỏ, số lượng lọ giác hơi nên ít. Đối với các chứng đau nhức, muốn khống chế cơn đau, thì thời gian giác hơi nên dài hơn, lực giác hơi nên mạnh hơn.
13. Liệu trình:
Những căn bệnh cấp tính thì mỗi ngày tiến hành giác hơi một lần, mạn tính thì cách một ngày giác hơi một lần cứ liên tục như thế 10 - 15 lần cho một liệu trình.
14. Phương pháp xử lý mụn nước và vết bỏng:
Sau khi giác hơi, nếu xuất hiện mụn nước, có thể là do liên quan đến việc thời gian giác hơi quá dài hoặc do các chứng bệnh phong thấp, ung mủ. Việc phát sinh mụn nước không hoàn toàn là triệu chứng xấu. Có trường hợp, người ta cố ý áp dụng liệu pháp “phát bào” để chữa trị. Nếu như đã phát sinh mụn nước rồi, có thể dùng cồn iod sát trùng, giữ sạch, băng lại, thông thường mụn nước sẽ tự xẹp. Nếu đề phòng nhiễm trùng hoặc đã xuất hiện nhiễm trùng thì cho uống thuốc kháng khuẩn và xử lý tùy mức độ.
15. Lưu ý:
- Không được giác hơi ở hai bên cổ, ở đây có động mạch cổ đi qua.
- Sử dụng ống giác kích thước lớn nhỏ tùy theo từng bộ phận, từng người bệnh, từng vị trí sẽ giác mà có sự lựa chọn khác nhau. Ở những vùng có nhiều cơ, mặt bằng rộng lớn thì dùng ống cỡ to; ở những vùng nhỏ hẹp, cơ thịt tương đối mỏng, lớp mỡ dưới da tương đối ít thì dùng ống cỡ nhỏ.
- Khi ứng dụng phương pháp nhá lửa, miếng bông gòn thấm rượu cồn không nên thấm nhiều quá, đề phòng rượu cồn rơi xuống, gây ra thương bỏng. Giác hơi bằng lửa chú ý tránh gây bỏng.
- Khi dùng ống tre hoặc trúc nung, nhất định phải vẩy cho thật sạch chất thuốc nóng, để tránh gây ra thương bỏng cho da.
- Khi dùng phương pháp giác kết hợp với chích, cần phải chú ý theo dõi thời gian ra máu và đông máu của người bệnh, chứng thực nhiệt thì có thể chích sâu hơn, để cho ra máu nhiều hơn.
- Khi sử dụng nhiều ống giác, trường hợp xếp khít nhau, thì khoảng cách giữa các ống không nên vượt quá 1 tấc, thích hợp áp dụng cho những người bệnh đau nhưng có thể trạng tốt. Trong trường hợp xếp thưa, khoảng cách giữa các ống là từ 2 tấc trở lên, thích hợp cho người bị suy nhược cơ thể.
- Khi dùng phương thức tẩu quán, lưu ý không thể áp dụng cho những bộ phận có nhiều đốt xương, tại các khớp xương và vùng da có vách dốc, hay những vùng da non, nhằm tránh gây tổn thương cho da.
- Không nên làm ngoài trời, nơi quá nóng hoặc quá lạnh.
- Có một số ít người khi giác hơi sẽ phát sinh hiện tượng choáng váng và chóng mặt. Lúc này người bệnh cảm thấy đầu đau hoa mắt, tim khó chịu, muốn nôn mửa, sắc diện trắng bệch, tứ chi lạnh lẽo, mồ hôi ra nhiều, hơi thở thúc bách, mạch đập yếu ớt, thì nên lập tức tháo ống giác ra, đặt người bệnh nằm trên giường, cho uống một cốc nước nóng. Trường hợp nặng có thể châm chích huyệt thập tuyên, nhân trung hoặc dùng ngón tay ấn vào huyệt nhân trung, người bệnh sẽ lập tức phục hồi trạng thái bình thường. Sau đó, tiếp tục phải cho nằm nghỉ trên giường khoảng 15 phút thì mới có thể đi ra khỏi phòng bệnh được.
- Trong quá trình giác hơi cả người bệnh và nhân viên y tế cần theo dõi thường xuyên tình hình sức khỏe để có những biện pháp xử trí kịp thời. Về phía người bệnh, cần chuẩn bị tâm lý, khi có những biểu hiện bất thường như nóng, choáng váng, hoa mắt, đau đầu… cần báo cho nhân viên y tế để dừng lại hoặc có cách xử lý kịp thời, tránh những biến chứng. Sau khi giác hơi xong, người bệnh cần nghỉ ngơi, không hoạt động mạnh, không nên tắm ngay, tránh cọ xát da vùng giác. Về phía nhân viên kỹ thuật y tế, kiểm tra và theo dõi tình hình sức khỏe của người bệnh trước, trong và sau khi giác hơi.