GIÁC HƠI

GIÁC HƠI

(Phần 2)

 

5. Chỉ định:

Cảm lạnh, đau nhức, đau mỏi cơ khớp, đau lưng, đau dạ dày, đau đầu, tăng huyết áp, cảm mạo, ho kéo dài, đau mắt, béo phì.

6. Chống chỉ định:

- Người bị bệnh tâm thần, suy tim, suy thận, xơ gan, da liễu, ung thư, lao phổi, ho hoặc nôn ra máu, suy giãn tĩnh mạch.

- Người có cơ chế đông máu kém, bệnh ưa chảy máu, chảy máu dưới da, bạch cầu cấp, suy giảm chức năng tiểu cầu.

- Sốt cao, co giật, phù thũng, da mất tính đàn hồi, da quá mẫn cảm, thường xuyên bị chuột rút, co quắp cơ, chấn thương, gãy xương.

- Phụ nữ đang hành kinh, mang thai, cho con bú; trẻ em và người già.

- Người quá suy nhược, say rượu, quá mệt, quá no, quá đói, quá khát.

7. Dụng cụ:

7.1. Lọ thủy tinh:

Từ trước đến nay trong lâm sàng, thường sử dụng nhất là lọ thủy tinh để giác hơi. Đa số các cửa hàng dụng cụ y tế và các hiệu thuốc đều bán lọ thủy tinh có dạng hình cầu, miệng thấp, tròn và bằng phẳng, miệng lọ nhỏ, bụng lọ phình to ra, vành miệng được uốn hơi vảnh ra ngoài và láng mịn, có nhiều quy cách khác nhau như cỡ lớn, cõ trung và cỡ nhỏ. Đặc điểm là làm bằng chất liệu trong suốt, có thể dễ dàng quan sát mức độ máu ứ được hút ra trên da và tình hình bên trong lọ, từ đó dễ dàng quyết định được thời gian giác hơi. Khuyết điểm là dễ vỡ.

7.2. Ống trúc:

Được chế tạo từ loại trúc xanh cứng, chất lượng cao. Cắt ống trúc thành các đoạn ống có chiều dài từ 6 - 9cm, bịt một đầu lại để làm đáy lọ, đầu còn lại được mài nhẵn và đánh bóng để làm miệng lọ. Các loại ống trúc lớn nhỏ khác nhau sẽ được chế tạo thành các lọ có quy cách khác nhau. Đặc điểm là nhẹ, giá cực rẻ, khó vỡ, lực hút mạnh, có thể hấp thụ được dịch thuốc, thường dùng để hấp với trung dược, sau đó mới đem đi giác hơi.

7.3. Lọ cao su:

Là một loại dụng cụ giác hơi được chế tạo bằng chất liệu cao su dựa trên quy cách và hình dáng của lọ thủy tinh. Ưu điểm là khó vỡ, có thể mang đi rất tiện lợi, không cần phải mồi lửa. Khuyết điểm là lực hút phụ áp yếu, không đủ mạnh, không tạo cảm giác nóng.

7.4. Sừng trâu:

Dùng sừng trâu để giác hơi rất phổ biến ở Indonesia. Việc sử dụng sừng động vật bị cảnh báo có thể gây lây nhiễm bệnh và nhiễm trùng chéo.

7.5. Khác:

Sau khi đã lựa chọn được ống giác hơi và số lượng ống (khoảng 10 ống). Còn cần có cồn 700 - 900, bông thấm hoặc giấy mỏng, lửa (diêm, bật lửa). Kim châm cứu đã tiệt khuẩn; hào châm để châm cứu, kim tam lăng để chích nặn máu. Bông thấm, tăm bông đã tiệt khuẩn; để ở trong lọ hoặc hộp sạch đậy nắp. Panh kose có mấu và không mấu. Khay men 2 chiếc, một để dụng cụ giác, một để dụng cụ châm. Nồi nước thuốc và bếp đun nước thuốc, khăn bông sạch khô để thấm nước thuốc nóng ở miệng ống giác tre và các dụng cụ bổ trợ cần thiết khác.

8. Tư thế người bệnh:

Điều chỉnh tư thế của người bệnh, trên nguyên tắc là chọn tư thế sao cho người bệnh cảm thấy thoải mái, có thể duy trì lâu được, đồng thời thuận tiện cho người chữa trị thực hiện thao tác giác hơi. Thông thường có 4 tư thế sau đây:

- Nằm ngửa: thích hợp giác hơi ở ngực, bụng, mặt trước chân.

- Nằm sấp: thích hợp giác hơi ở các bộ phận và huyệt vị ở lưng, eo, mặt sau chân.

- Nằm nghiêng sang một bên: thích hợp giác hơi các bộ phận và huyệt vị ở lưng, vai, mông, mặt, sau và mặt ngoài chân.

- Ngồi: thích hợp giác hơi ở các bộ phận tại vai, lưng, eo, cũng như các huyệt vị ở vùng mặt và cổ.

9. Bộ phận tiến hành:

Trong lâm sàng, việc lựa chọn vị trí giác hơi lấy cục bộ làm chủ yếu, tức là lấy huyệt a thị làm chủ, đau chỗ nào thì giác hơi chỗ đó. Đối với các bệnh nội khoa phức tạp, khi lựa chọn vị trí giác hơi, phải dựa trên phủ tạng kinh lạc làm lý luận cơ bản mà lựa chọn. Thông thường đa số trường hợp, đều lấy các huyệt vị ở vùng ngực, bụng và vùng lưng, eo làm các vị trí thường dùng nhất để giác hơi, bởi vì tại các vị trí này có nhiều cơ, diện tích lại lớn, thích hợp cho thao tác giác hơi.

10. Thao tác kỹ thuật cơ bản:

10.1. Giác lửa:

- Phương pháp nhá lửa: một tay dùng cây nhiếp hay kiềm cầm máu kẹp miếng bông gòn có tẩm rượu cồn, một tay cầm chặt lọ giác hơi, úp miệng lọ xuống, sau khi điểm lửa cho miếng bông gòn cháy, nhanh chóng đưa vào tận đáy bên trong cốc rồi nhanh chóng kéo ra, sau đó lập tức đưa lọ úp vào bộ phận cần giác hơi, để cho bên trong ống hình thành một loại phụ áp hút da lên. Ưu điểm là khó gây thương bỏng, thích hợp sử dụng cho tất cả các bộ phận và các tư thế giác hơi.

- Phương pháp cho lửa vào: phương pháp cho lửa vào là một trong những phương pháp giác hơi mà dân gian thường dùng, sau khi đốt cháy miếng bông gòn tẩm rượu cồn hay miếng giấy, thì bỏ chúng vào trong lọ giác hơi, sau đó nhanh chóng đem lọ úp lên vị trí cần giác hơi. Thích hợp sử dụng ở mặt bên của cơ thể, đặt ống giác hơi nằm ngang, để tránh cho miếng bông gòn hay miếng giấy rớt xuống da, gây thương bỏng cho da.

- Ngoài ra còn có các phương pháp giá hỏa, dán bông, rót rượu sau đó châm lửa để tạo thành lực hút, những phương pháp này hiện nay lâm sàng rất ít sử dụng.

10.2 Giác nước thuốc:

- Dùng sức nóng của nước thuốc đuổi khí trong ống giác.

- Có nồi nước thuốc phù hợp với bệnh, nấu sôi vài phút thì thả ống giác tre hoặc trúc vào nước thuốc, tiếp tục nấu sôi 2 - 3 phút.

- Dùng kẹp gắp ống giác ra, miệng hướng xuống dưới, vẩy cho hết nước, lấy khăn sạch khô thấm cho khô miệng ống giác và làm giảm sức nóng, sau đó ấn miệng ống giác xuống da nơi giác, miệng ống giác bị hút chặt.

10.3. Giác kết hợp với châm:

- Cách châm xong rút kim, rồi giác chỗ châm: Châm huyệt đạt đắc khí, làm thủ thuật tả 10 phút rồi rút kim; lập tức giác chỗ châm, có thể thấy ở lỗ châm có ít máu hoặc ít dịch thoát ra.

- Cách châm xong lưu kim, rồi giác chùm lên kim: Châm huyệt đạt đắc khí xong; lập tức giác chùm lên kim, đầu cán kim cần cách đáy ống giác khoảng vừa phải để đáy ống giác không ấn kim xuống làm cho kim cong lại hoặc kim vào sâu hơn có thể gây tai biến, nhất là ở vùng ngực và lưng, chích kim càng không nên sâu quá, nếu như không cẩn thận mà để kim bị đè xuống sâu quá, thì rất dễ sinh ra chứng khí hung.

10.4 Giác kết hợp với chích:

- Chích trước giác sau: Dùng kim tam lăng chích huyệt hoặc nơi có bệnh; lập tức giác chùm lên vết chích để hút máu, mủ ra; lưu ống giác 10 - 15 phút.

- Giác trước chính sau: Giác lên vị trí cần giác, lưu ống giác 10 - 15 phút đến khi thấy da vùng giác ửng đỏ; sau khi nhấc ống giác, lập tức dùng kim tam lăng chích vào da, dùng tay nặn chỗ chích cho ra tí máu.

10.5. Phương pháp rút khí hấp dẫn:

Đây là một dạng phương pháp giác hơi trực tiếp hút khí trong ống giác hơi ra để tạo thành phụ áp. Thường sử dụng máy chú xạ để hút không khí bên trong lọ, rồi đặt lọ lên một bộ phận hay huyệt vị đã xác định. Từ trước đến nay, lâm sàng ít sử dụng phương pháp này.

10.6 Đặt ống giác:

- Đặt ống giác lên bộ phận cần trị liệu trong một thời gian nhất định, đây là phương pháp giác hơi thông dụng nhất, thông thường đặt ống giác 10 - 15 phút, có thể dùng một ống, cũng có thể dùng nhiều ống.

- Sau khi ống giác bám vào, lập tức nhổ ra, làm liên tục như thế nhiều lần, sao cho vùng da từ từ đỏ lên thì thôi. Dùng cho các chứng tê cục bộ, cảm nhiễm phong thấp, viêm mút thần kinh…

- Tại mép bên của bộ phận trị liệu và ống giác, thoa nhẹ lên một lớp mỏng vaselin hoặc các loại dầu khác, đợi sau khi ống giác dã bám vào da thì một tay bê đáy ống, một tay cầm thân ống, từ từ di chuyển lên xuống, sang trái sang phải trên da, cho đến khi nào vùng da nổi đỏ lên hay xuất hiện máu bầm thì thôi. Phương pháp này gọi là tẩu quán, dùng để chữa các cơn đau, viêm thần kinh cột sống, phát nhiệt do các chứng tê liệt, phong thấp trật đả tổn thương gây ra.

10.7 Nhấc ống giác:

- Một tay cầm ống giác nhẹ nhàng kéo nghiêng theo một hướng, tay khác thì đặt lên vùng cơ gần kề với phần miệng bên nghiêng của ống giác, dùng ngón tay từ từ ấn cơ xuống, khiến cho giữa vùng da và ống giác hình thành một không gian nhỏ hẹp, để cho không khí theo kẻ hở đó đi vào bên trong ống giác, lực hút từ từ giảm dần rồi mất, ống giác sẽ tự nhiên rơi ra. Tránh dùng lực kéo mạnh ra, đề phòng da bị tổn thương.

- Sau khi nhấc ống giác, lấy vải sạch lau sạch; vô trùng miệng chỗ châm chích máu, mủ hoặc băng lại nếu cần.

Đăng kí nhận tin