![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
Còn gọi là tằm dâu. Tên khoa học Bombyx mori L. Thuộc họ Tằm - Bombycidae.
Trồng dâu nuôi tằm là một nghề truyền thống nổi tiếng của một số địa phương. Trong đó có huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) quê tôi.
1. Công dụng
Con tằm, ngoài việc nhả tơ để dệt lụa cho ta cái mặc; nó còn cho ta cái ăn như nhộng tằm, rượu tằm..., sử dụng trong chăn nuôi và làm thuốc trong Đông y.
1.1. Tằm chín
Lấy tằm lúc đã chín đỏ bóng, đã lên bủa nhả ít sợi tơ (con nào bị ruồi nhặn đốt có vết đen thì bỏ đi). Cho tằm vào nồi nước đang sôi, khuấy nhanh tay, khi thấy tằm trắng ngà vớt ngay ra cho vào rổ thưa để ráo nước; rồi sấy khô với lửa nhẹ (40-500C) thường đảo luôn, khi da tằm đã săn, cho lửa to hơn (70-800C) cho đến khi tằm khô đến 9/10 là được; có nắng đem phơi, phủ vải màng tránh ruồi nhặng; lúc nào tằm khô, có màu vàng nâu bóng, có mùi thơm thì bỏ vào lọ nút kín; khi dùng, lấy tằm khô tẩm nước gừng (một phần gừng giã nát, hai phần nước), cho tằm mềm ra, sao vàng, đảo luôn, không để cháy, đến khi tằm khô, bẻ gãy là được; tán chung với các dược liệu khác cho mịn, dùng mật ong làm viên.
Theo y học cổ truyền; tằm chín có vị mặn, béo, bùi, thơm; tính ấm; có tác dụng: bổ dưỡng thần kinh, bổ tỳ thận; trị các chứng: suy nhược thần kinh, ăn ngủ kém, di mộng tinh, suy nhược cơ thể, chữa trẻ con chậm lớn, đàn bà ít sữa mệt mỏi; ngày dùng 6 - 12g. Có tác dụng bổ dưỡng thần kinh, bổ tỳ thận; trị các chứng suy nhược thần kinh, ăn ngủ kém, di mộng tinh, suy nhược cơ thể, chữa trẻ con chậm lớn, sản phụ ít sữa mệt mỏi.
1.2. Tằm vôi (tằm chết gió, bạch cương tằm)
Là toàn thân khô của con tằm tự nhiên bị bệnh (do vi nấm) mà chết cứng, sắc trắng như vôi; đem phơi khô con tằm vôi trong gió hoặc ngoài nắng có phủ vải màn hoặc sấy nhẹ đến khô; đem sao với cám cho đến vàng, để nguội; bảo quản trong chai lọ kín, cho chất hút ẩm để tránh mốc.
Theo y học cổ truyền, tằm vôi có vị mặn, cay; tính bình. Có tác dụng: trừ phong, hoá đàm, trấn kinh, tán kết. Trị các chứng: kinh giản, cổ họng sưng đau, phong đờm ho hen, mất ngủ, trúng phong mất tiếng, đầu phong răng đau; dùng ngoài chữa các chứng lở ngứa, các vết sạm trên mặt. Ngày dùng 4 - 8g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
1.3. Ngài tằm đực
Con tằm đến độ trưởng thành chuyển từ màu trắng sáng sang màu vàng nhạt rồi vàng đậm là tằm chín, sẽ nhả ra những sợi tơ rất mảnh, bao bọc quanh mình mỗi ngày một nhiều và dày lên thành kén. Lúc này tằm co lại và biến thành nhộng. Đến độ phát triển, nhộng sẽ mọc cánh, chân và râu, rồi cắn kén chui ra và biến thành con ngài gồm con đực và con cái.
Theo Đông y, chỉ dùng ngài tằm đực bắt vào 5 - 6 giờ sáng vì lúc này là thời điểm những con ngài tằm đực khỏe mạnh, vừa mới ở kén chui ra; dược liệu có tên thuốc là tàm nga, vị mặn, bùi béo, mùi thơm, tính ấm, với tác dụng bổ thận, tráng dương, cường tinh. Bộ phận dùng làm thuốc của ngài tằm đực là cả con, đem vặt cánh, bỏ đầu và chân, rồi phơi hoặc sấy khô. Khi dùng đem dược liệu sao vàng, có thể dùng tươi, dược liệu có tác dụng ích tinh, bổ thận tráng dương, dùng trị các chứng di tinh, hoạt tinh, liệt dương...
Theo nghiên cứu của dược lý học hiện đại, ngài tằm đực đã được xác định chứa chất methyl testosteron (một nội tiết tố nam) có hoạt tính sinh học cao và tác dụng làm tăng mạnh trọng lượng của túi tinh trên động vật thí nghiệm.
1.4. Phân tằm
Là thứ phân lúc tằm ăn lên (phân tằm già gần chín), loại bỏ những lá tằm chưa ăn, các tạp chất, rồi phơi khô, sàng sạch bẩn là được. Có tác dụng: trừ phong thấp, tán ứ huyết, giảm đau. Thường dùng 6 - 12g/ ngày, dạng thuốc sắc hay thuốc viên, dùng ngoài không kể liều lượng.
1.5. Nhộng tằm (hay tàm dũng): Nhộng tằm chứa 13% protein, gần 3% lipit và nhiều chất muối khoáng. Do đó, nó vừa là món ăn ngon, vừa là vị thuốc có tác dụng bồi dưỡng sức khoẻ. Trẻ em cần ăn nhộng tằm vì trong đó có nhiều can xi, phốt pho rất cần cho sự phát triển của cơ thể trẻ. Nhộng tằm còn có tác dụng nhuận tràng.
1.6. Kén tằm (hay tàm kiển): Tức là xác kén tằm mà bướm tằm đã cắn ra, chỉ còn lại xác. Nó có vị ngọt, tính ấm, không độc. Chữa đi tiểu ra máu, băng huyết. Ngoài ra còn có thể dùng ngoài.
1.7. Nước ươm tơ (hay sào ty thang): Vị mặn nồng, không độc; trị chứng trong lòng nóng, tiêu khát, thường ngày uống nhiều thì khỏi nóng và đỡ khát.
2. Ứng dụng
2.1. Thuốc bổ con tằm: tằm chín 200g, lá dâu 500g, mè đen 300g, mật ong vừa đủ làm viên. Chọn những con tằm chín đã nhả được ít sợi tơ, có màu vàng óng, loại bỏ những con có vết đen trên mình; cho tằm vào nước sôi, khuấy mạnh đến khi tằm chuyển sang màu trắng ngà. Vớt ra, để ráo nước, sấy hoặc rang nhỏ lửa ở nhiệt độ chừng 500C, đảo đều tay cho tằm khô và không bị cháy. Khi thấy da tằm săn lại, cho lửa to hơn khoảng 800C, đảo đến lúc tằm có màu vàng nâu bóng, mùi thơm là được. Chờ tằm nguội, ngâm vào nước gừng trong 1 - 2 giờ với tỷ lệ một phần gừng và hai phần nước để làm mất mùi tanh của tằm; vớt tằm ra, sao vàng cho đến khi tằm thật khô, bẻ gãy được; tán nhỏ, rây thành bột mịn. Lá dâu bánh tẻ, loại bỏ lá bị sâu, lá úa, rửa sạch, phơi khô trong râm hoặc nắng nhẹ, vò bỏ cuống và gân lá. Mè đen đem sảy sạch hạt lép và rác rưởi, phơi khô, sao thơm; tán lá dâu với mè đen, rây thành bột mịn. Trộn lẫn bột tằm với bột mè và lá dâu. Thêm dần mật ong, giã nhuyễn, trộn đều đến lúc khối bột không dính tay là được. Làm thành viên độ 1g. Thuốc có màu đen, hơi mềm, mùi thơm, vị ngọt mặn. Đựng thuốc trong lọ sạch và kín, để nơi khô ráo, dùng dần. Ngày uống hai lần, người lớn mỗi lần 10 - 20g; trẻ em tùy tuổi: 5 - 10g; dùng sau mỗi bữa ăn, liền trong 1 tháng. Có tác dụng bổ dưỡng như sâm nhung, rất tốt cho thận, dạ dày, ruột và thần kinh, chữa các chứng suy nhược, lao lực, mệt mỏi, khó ngủ, mất ngủ, ăn chậm tiêu, di mộng tinh, người cao tuổi gầy yếu, trẻ em chậm lớn, sản phụ ít sữa.
2.2. Da mặt đen sạm: tằm vôi tán nhỏ, hoà với nước bôi vào vết sạm, mỗi đêm một lần.
2.3. Đau nữa đầu: tằm vôi 4g/ngày, hoà với nước chè uống.
2.4. Bán thân bất toại, đau nhức khớp do phong thấp: dùng 2 chén phân tằm sao nóng, đựng vào 2 túi vải thay đổi mà chườm vào chỗ tê đau.
2.5. Phụ nữ lậu huyết lâu ngày: phân tằm, đất lòng bếp, a giao sao, hoa hoè sao qua mỗi vị đều 12g, tán thành bột uống 8g/ lần với nước có pha tí rượu.
2.6. Rượu ngài tằm đực: ngài tằm đực 100g, dâm dương hoắc 60g, kim anh tử 50g, ba kích 50g, thục địa 40g, sơn thù 30g, ngưu tất 30g, kỷ tử 20g, lá hẹ 20g, đường kính 40g. Tất cả xắt nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu 35 - 400, càng lâu càng tốt. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30ml, trước hai bữa ăn chính và khi đi ngủ. Có tác dụng bổ thận tráng dương, hỗ trợ chữa liệt dương, di tinh.
3. Lưu ý
Tằm vôi không được dùng chung với vị thuốc cát cánh, phục linh; những người huyết hư không phải phong tà không dùng được.
Những người không phải tê thấp mà có huyết nóng thì không dùng được phân tằm.