CHÍCH LỂ

CHÍCH LỂ

1. Khái niệm:

Chích lể là phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc được cha ông ta sử dụng từ ngàn xưa. Chích - còn gọi trích - là dùng kim tam lăng hoặc kim hào châm đâm nhẹ vào huyệt hoặc chỗ đậm nhất của vùng da ứ đọng huyết hoặc vùng đọng huyết (nơi có máu độc ứ đọng), khi rút kim máu tự vọt chảy ra ngoài. Lể - còn gọi nhể - là véo da lên, dùng kim đâm nhẹ vào đúng điểm tụ huyết hoặc xuất huyết, máu không tự chảy ra mà phải dùng tay nặn cho máu ra. Đây là phương pháp trực tiếp loại bỏ các chất độc và máu độc ra khỏi cơ thể để khai thông các kinh mạch, giúp cho khí huyết được điều hoà.

2. Nguồn gốc:

2.1. Thế giới:

Trước khi nền Tây y phát triển theo cơ sở khoa học như hiện nay, các bác sĩ châu Âu và châu Mỹ thực hành một loại y khoa khá thô sơ, với hai thủ thuật chính là trích huyết và bơm thuốc vào hậu môn để súc ruột già. Cơ sở lý luận là bệnh được giải thích bằng sự mất quân bình của các thể dịch. Cắt cho máu chảy ra bớt được xem như giải tỏa bớt sự mất quân bình đó.

Liệu pháp chích huyết có một nguồn gốc xa xưa trong lịch sử Đông y Trung Quốc. Đầu tiên nó được đề cập đến trong các sách Nội kinh, Tố vấn, Linh khu là một trong những thủ pháp thao tác trong liệu pháp châm cứu; trong các sách đó chỉ đề cập sơ sài về chích lể như một phần của châm cứu biến dạng. Mãi đến thời nhà Tống (960 - 1276) mới có sách Dưỡng sinh cảnh của Lục Nhạo Sơn mô tả thủ thuật chích lể, cũng như nêu ra một số chỉ định và chống chỉ định của phương pháp này. Sau này, từ những năm 1970 trở đi, các sách giáo khoa về châm cứu của Trung Quốc có dành hẳn một chương nói về chích lể. Tuy nhiên, phương pháp này về nội dung rất khác với phương pháp chích lể của Việt Nam.

2,2. Việt Nam:

Tại Việt Nam, chưa thấy có tài liệu nghiên cứu nào khẳng định môn chích lể có từ bao giờ. Nếu theo sách Lĩnh nam chích quái thì có thể chích lể đã có từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, với nhà châm cứu Thôi Vỹ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận rằng: chích lể là của nhân dân sáng tạo ra, gắn bó với dòng lịch sử. Sau đó, hình như chích lể chỉ còn truyền khẩu trong dân gian, nhất là vào thời kỳ Pháp thuộc - thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 - các phương pháp trị liệu bằng Đông y càng bị cấm đoán nhiều hơn.

Ở miền Nam, có khá nhiều thầy thuốc đã sử dụng chích lể để chữa bệnh với hiệu quả cao. Như trước những năm 1970 có hai trường phái nổi tiếng một thời ở Sài Gòn là phương pháp cạo giáo, bấm huyệt, cắt lể của thầy Ba Cầu Bông Tăng Văn Mùi và phương pháp vỗ gió, cắt giác máu của thầy Ba Tôn Nguyễn Văn Hiền… Tác giả Thượng Trúc trong quyển Cấp cứu bịnh phổ thông in năm 1969, đã giới thiệu chi tiết phương pháp chích lể.

Ở miền Bắc, mãi đến năm 1973, lương y Nguyễn Oắng đã mở lớp huấn luyện 6 tháng về chích lể đầu tiên cho một số bác sĩ và lương y tại tỉnh Hòa Bình.

Năm 1983, lương y Nguyễn Oắng triển khai và thực hiện nghiên cứu thí điểm quy mô phương pháp chích lể tại Viện Y học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận, ông đã viết sách Chích lể rất hay, dễ học dễ làm vào năm 1983. Sau đó lương y Phan Quốc Sử biên tập, tổng hợp, bổ sung thành 2 tài liệu cơ bản của môn chích lể là Giáo trình thực hành chích lể toàn khoa và Tư liệu tham khảo ngành chích lể Việt Nam.

3. Đặc điểm:

3.1. Đơn giản, ít tốn kém:

Chích lể là phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc, dụng cụ chỉ cần có cây kim (kim tam lăng, kim chích thuốc, gai quýt…), một ít bông gòn vô khuẩn, cồn 70 - 900, cồn i ốt và panh (pince). Chỗ trị bệnh khô ráo, sạch sẽ, vệ sinh, có đủ ánh sáng để thấy những dấu vết cần chích lể.

3.2. Tương đối dễ học, dễ làm:

Chích lể là phương pháp phòng và chữa bệnh có tính đại chúng, gia truyền và được truyền khẩu từ đời này sang đời khác. Nay được các bậc thầy đúc kết chung thành khoa Chích lể Việt Nam, lý thuyết khá đơn giản.

3.3. An toàn, ít xảy ra tai biến:

Thực tiễn chưa thấy có báo cáo nào về tai biến xảy ra khi áp dụng chích lể đúng nguyên tắc và thao tác kỹ thuật được hướng dẫn. Cần chú trọng nguyên tắc phòng ngừa, vô trùng… trong chữa bệnh bằng chích lể. Lưu ý những trường hợp chống chỉ định và biện pháp phòng ngừa xử lý tai biến thì rất an toàn, ít xảy ra tai biến.

3.4. Hiệu quả cao, kết quả nhanh:

Nhiều bệnh trên thực tế lâm sàng từ dễ đến khó, mới phát hoặc lâu năm, khi được trị bằng phương pháp chích lể thì giảm nhiều hoặc khỏi được bệnh trong thời gian rất ngắn.

3.5. Phạm vi chữa bệnh tương đối rộng rãi:

Chích lể có khả năng chữa hầu hết các bệnh toàn thân từ đầu đến chân gồm nhiều loại chứng bệnh ngoại cảm, nội thương, bất nội ngoại nhân, dạng thông thường kể cả cấp tính và kinh niên bằng nhiều phương pháp thủ thuật thích nghi.

Phương pháp chích lể đã và đang được nhiều người tin dùng, ngày càng được nghiên cứu sâu rộng, hệ thống hoá và áp dụng điều trị quy mô, rộng rãi hơn.

4. Mục đích:

- Khai thông khí huyết, làm cho huyết quản thông suốt, tuần hoàn điều hòa, khí huyết lưu chuyển, mạch lạc khai thông.

- Giải phóng thần kinh bị chèn ép, làm cho sinh lý cơ thể hoạt động bình thường.

- Điều hòa chức năng của tạng phủ, để giữ cơ thể được quân bình sinh hóa.

- Tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm giảm bệnh tật.

5. Nguyên lý:

Đông y cho rằng, khí và huyết cùng tuần hoàn trong mạch, đi khắp và nuôi dưỡng toàn bộ cơ thể, các loại hoạt động chức năng của cơ thể người đều dựa vào sự vận hành bình thường của khí huyết. Nếu như chính khí hao hư, tà khí bên ngoài tấn công vào cơ thể, khiến cho cơ chế vận hành của khí trong cơ thể bị rối loạn đảo nghịch, khí huyết bị ứ tắc, chức năng của tạng phủ mất cân bằng, thì sẽ phát sinh bệnh tật. Kinh mạch ở trong thuộc về tạng phủ, ở ngoài lạc thuộc về các chi khớp, thông qua "vận hành khí huyết, nuôi dưỡng âm dương" để điều tiết sự cân bằng chức năng của cơ thể, khiến "vệ khí hài hòa thì tỏa đi khắp cơ thể một cách thông suốt, da dẻ mềm mại, thớ thịt săn chắc". Chích lể giải phóng huyết dịch có thể "khai thông kinh mạch, điều hòa khí huyết trong kinh mạch ấy", khai thông được sự ứ tắc của kinh mạch, điều chỉnh được sự rối loạn chức năng của tạng phủ, từ đó đạt được mục đích trị liệu.

Vi tuần hoàn trong Tây y là sự tuần hoàn dịch thể tham gia trực tiếp vào sự trao đổi chất của tế bào, tổ chức vật chất, chủ yếu bao gồm động mạch nhỏ, mao mạch, tĩnh mạch nhỏ, hệ bạch huyết. Sự thay đổi của vi tuần hoàn da không chỉ phản ánh bệnh biến cục bộ, mà đối với bệnh tật toàn cơ thể cũng có giá trị chẩn đoán đặc biệt, một số bệnh tật mang tính cục bộ nào đó cung cấp không đủ máu hoặc tĩnh mạch bị tắc nghẽn, vi tuần hoàn không thông, có thể là do cấu hình hệ vi tuần hoàn da gặp những chứng bất thường gây nên. Các nghiên cứu hiện đại nhận thấy, sự biến đổi hình thái của vi tuần hoàn và chức năng của da khi truyền cảm nhận theo kinh, cũng như sự gia tăng nhiệt độ của da đều có xu hướng theo kinh, những điều này rất giống so với sự trình bày bề ngoài hành tuyến của lạc mạch và kinh lạc trong học thuyết kinh lạc của Đông y. Sự biến đổi bệnh lý của lạc mạch thể hiện rằng lạc mạch đầy huyết mà biến thành, điều này về cơ bản thống nhất với sự biến đổi hình thái của các mao mạch. Lạc mạch ứ huyết, huyết lưu chuyển không thông, còn cùng loại với sự thay đổi bệnh lý của sự nhanh chậm dòng chảy của các dòng máu trong mao mạch, cũng như trạng thái vận hành của các dòng mao mạch này. Do sự liên quan mật thiết giữa kinh lạc và mao mạch, có thể cho rằng chích lể thực tế chính là chích trúng mao mạch trên bề mặt cơ thể, để kích thích và điều chỉnh trạng thái chức năng của vi tuần hoàn.

Chích lể cho ra máu một mặt có thể loại bỏ huyết ứ ra ngoài, khiến cho tính tự vận động của mao mạch được tăng cường, tăng cường trao đổi hai chiều, có ích cho sự trao đổi chất kịp thời vào hệ tuần hoàn huyết dịch trong cơ thể; mặt khác kích thích được thần kinh thành mao mạch, tăng cường tác dụng điều tiết của mao mạch và gián tiếp cải thiện được chức năng vi tuần hoàn, kế đó cải thiện được chức năng của các cơ quan tổ chức tạng phủ trong cơ thể.

Một số tư liệu nghiên cứu thực tiễn trong những năm gần đây đã chỉ rõ, chích lể vào kinh lạc giải phóng huyết ứ. Ngoài việc có thể cải thiện rõ rệt chức năng vi tuần hoàn cục bộ hoặc trên toàn cơ thể, khử ứ sinh mới, khiến cho các tổ chức tế bào và các cơ quan ngũ tạng trong cơ thể được khí huyết nuôi dưỡng kịp thời và đảm bảo chức năng bình thường, đồng thời còn có thể nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể, đặc biệt nó có thể nâng cao hiệu quả trong việc hạ thấp nồng độ C3b trong hồng cầu của người già, từ đó mà có tác dụng chống lão hóa.

Từ những phân tích sinh lý học hiện đại, chích lể vào kinh lạc loại bỏ ra một ít máu, lượng máu loại ra ngoài chỉ có mấy giọt, không những không thể gây nên thiếu máu để dẫn đến suy nhược cơ thể mà ngược lại nó còn kích thích chức năng tạo máu của cốt tủy, thúc đẩy quá trình đổi mới của cơ thể, tăng cường khả năng kháng bệnh, từ đó mà có ích cho sự tăng cường sức khỏe của cơ thể.

6. Tác dụng:

6.1. Khử tà giải biểu:

Sách Tố vấn - thiên Bì bộ luận đã chỉ ra con đường tà khí từ ngoài xâm nhập vào cơ thể người là trước hết làm tổn thương da, tiếp đến nhập vào lạc mạch, rồi chuyển tiếp vào kinh mạch, cuối cùng xâm nhập vào tạng phủ. Lạc mạch chạy nổi ở bề mặt cơ thể, tà thương còn cạn, chích lạc loại bỏ huyết thì có thể trừ khử tà khí ra ngoài sớm, khiến cho tà khí có đường ra, không cho truyền nhiễm vào trong. Trương Tùng Chính (Trung Quốc) cho rằng: “chích bỏ máu so với giác hơi, tuy mỗi cái có khác nhau nhưng hiệu quả thực tế thì giống nhau”. Thích hợp dùng cho các chứng bệnh thuộc dạng biểu thực chứng như cảm mạo, ho, đau đầu, ung nhọt, phong ngứa, phù nề.

6.2. Cấp cứu khai xảo:

Tà nhiệt tăng cao, nhiệt đến cùng cực thì sinh phong, phong hỏa kích phát lẫn nhau, khí huyết cũng theo đó cùng đi lên, căng tràn khoang não. Nhiệt nhập doanh phận, các chứng nguy cấp như say trong khí bẩn độc mà dẫn đến hôn mê, co giật, thường dùng kim chích bỏ huyết ở các huyệt thuộc thập tuyên, thập nhị tỉnh, để khai thông ứ tắc, đánh thức não bộ và an thần.

Ngày nay người ta dùng thủ pháp chích bỏ máu các huyệt thuộc thập tuyên để cấp cứu trẻ em lên cơn co giật hôn mê do sốt cao gây nên và đã thu được hiệu quả trị liệu rất tốt. Đồng thời điều đó cũng chứng tỏ được tác dụng quan trọng của phương pháp chích bỏ máu để cấp cứu các chứng nguy cấp.

6.3. Khử ứ thông lạc:

Căn cứ vào nguyên tắc “uất trần tắc trừ chi” cũng như “huyết thực nghi quyết chi”, “người ta nếu có đau đớn do huyết độc tồn đọng trong cơ thể” và “chứng tê mạn tính không khỏi” khiến cho kinh lạc chịu tổn thương, khí tắc huyết ứ, thì phải “chọn huyệt lạc thuộc bệnh, xả hết máu độc ra”, nói rõ rằng phương pháp chích bỏ huyết trong kinh lạc có thể hoạt huyết khử ứ, thông lạc chỉ thống. Nội thương nhiễm bệnh hoặc ngoại thương té ngã gây nên, khí huyết ứ tắc cục bộ hoặc toàn thân dẫn đến các chứng bệnh như đau, tê, tích tụ, sưng trướng, ung nhọt, đều có thể dùng phương pháp này để tiến hành trị liệu.

6.4. Loại bỏ mủ, tiêu trừ phù thủng:

Do thích ăn béo ngọt, làm tổn thương tỳ vị, chức năng tiêu hóa mất điều hòa, thấp nhiệt nội sinh, lâu ngày sinh hỏa; làn da bị tổn thương, tà độc theo đó nhiễm vào cơ thể, nhiệt tà tụ kết lại trên bề mặt các cơ, khí huyết ứ tắc, tắc nhiệt kết hợp với nhau… đều có thể phát sinh các chứng ung nhọt và thấy có sưng phù đỏ đau nóng, lâu ngày thì nhiệt thắng huyết bại, thịt rữa thành mủ.

Sách Tố vấn – thiên Trường thích tiết luận có nói rằng: “Trị sưng mủ là chích lên nơi sưng đau, căn cứ vào độ lớn nhỏ của khối ung nhọt mà chích sâu cạn khác nhau, chích mạnh thì máu nhiều, chích cạn thì máu ra ít”, câu này đã chỉ ra phương pháp trị liệu dùng kim châm trực tiếp lên bề mặt khối sưng u để loại bỏ máu và mủ tiêu sưng.

Tóm lại, liệu pháp chích bỏ máu lấy việc tấn công dần tà khí, tà khí được khử thì chính khí ổn định, từ đó mà đạt được mục đích trị liệu bệnh tật. Về mặt lâm sàng thì thường dùng cho các bệnh thuộc thực chứng và nhiệt chứng.

7. Dấu vết đặc trưng:

Các dấu vết báo bệnh này biểu hiện bản chất của các bệnh trong cơ thể. Vì cơ thể con người là một khối thống nhất gồm nội môi và ngoại môi, nên bệnh của lục phủ ngũ tạng và các tổ chức sẽ lộ ra ngoài da những dấu vết ở những vùng tương ứng với nội tạng. Do đó, khi ta lể ngay dấu vết đó thì có thể điều trị được sự rối loạn, mất quân bình sinh hoá (bệnh) ở các cơ quan tạng phủ liên hệ.

Các dấu vết đặc trưng trong chích lể có đặc tính chung về hình dáng, màu sắc, kích thước và vị trí mỗi lúc khác nhau; xuất hiện lên trên da hoặc nằm sâu trong các phần mềm tại các vùng đau; nơi nào có đau thì nơi đó hiện lên những dấu vết cần chích lể. Ngoài ra, có những vùng và điểm được chỉ định để trị một

số bệnh có hiệu quả do kinh nghiệm xưa nay truyền lại.

7.1. Tụ huyết:

Là trạng thái máu bị nhiễm độc từ chung quanh dồn tụ lại một chỗ thành một điểm, một chấm hay một nốt, nhỏ cỡ bằng chân nhang, tròn hoặc hơi tròn, màu đỏ, màu rỉ sét, màu đen, màu xanh ánh, màu trắng…

Chúng ở riêng rẽ hay gom tụ lại màu rỉ sét nằm ở bề mặt da, các vùng lõm, trũng ở gối chân, gối tay hay mắt cá, thường thấy ở các khớp hoặc tại vùng đau…

Có những nốt đỏ láng nằm dưới da dễ lầm với nốt muỗi cắn. Có điểm bầm đen hay là màu rỉ sét, những điểm đau màu đen thẫm. Cũng có những điểm vạch ra thấy xanh ánh dưới da nằm sâu trong phần mềm của thịt. Có những điểm tròn trắng láng như đầu hạt gạo thường thấy ở trên đầu các cụ bà đau đầu kinh niên hay lưng các cháu nhỏ bị đẹn.

Điểm tụ huyết thường gặp ở những bệnh cảm mạo, ho hen, nhức đầu, chóng mặt, đỏ mắt, đau mắt, viêm quanh khớp vai, đau cứng lưng trên, đau vùng bụng, đau thắt lưng vì lạnh, sốt rét, sổ mũi, hen suyễn, viêm xoang, cứng cổ, đau đa khớp, tê liệt tay chân, đau thần kinh hông to, nhiều bệnh thuộc về phong thấp… Các loại bệnh trên do cơ thể suy yếu, bị cảm nhiễm gió sương, mưa nắng, khí độc mới hoặc lâu của thời tiết khí hậu gây nên hoặc do các loại vi khuẩn gây ra.

7.2. Ứ huyết:

Là do ở tĩnh mạch, máu bị bế tắc hai đầu, máu ở đoạn giữa ứ lại, làm cản trở dòng máu lưu thông về tim. Hiện tượng ứ huyết lâu ngày làm tĩnh mạch giãn to ra gọi là tĩnh mạch trướng, phát sinh do cơ thể bị trúng lạnh, tạng phủ ứ máu, thường thuộc 3 dạng chính:

Dạng 1: Ứ huyết ở những đoạn tĩnh mạch lớn; máu ứ lại thành những đoạn, những khúc chạy ngoằn ngoèo quanh co. Thường gặp ở khuỷu chân, bắp chân, thắt lưng, vùng bụng và hông.

Dạng 2: Ứ huyết thành bọc hay túi màu xanh lạt, trông hơi anh ánh. Thường thấy ở bắp vế, bắp chân, mông, đầu, gây chứng đau buốt.

Dạng 3: Ứ huyết ở phần cuối tĩnh mạch bị giãn ra nổi lên mặt da thành từng túi đơn độc hoặc từng chùm, rải rác hay tập trung hoặc xoắn xuýt lại với nhau như búi chỉ, rễ cây. Thường thấy ở mông, đùi, bắp chân…

Để dễ nhận diện, loại ứ huyết lớn thường có màu xanh hơi thẫm hơn màu của tĩnh mạch, nhưng lại ứ thành bọc, túi hay đoạn phình ra lớn hơn tĩnh mạch. Còn loại ứ huyết nhỏ thường màu đỏ tím, đỏ hồng, đỏ nhạt tạo thành những đoạn ngắn nằm rải rác hay tập trung giống như rễ cây. Ở một số người bệnh giống như bán vòng kiềng hay vòng kiềng màu đỏ nhạt, thường hiện ra ở tay, chân, lưng, vai.

Người bệnh có tạng hàn thường bị ứ huyết, vì hàn dễ gây ngưng đọng máu. Hiện tượng ứ huyết thường thấy ở người bị trúng gió lạnh, cảm hàn, á khẩu, tê mỏi tay chân, hen suyễn tức ngực, tức bụng, liệt nửa người, đau lưng, phong ngứa ở chân. Huyết ứ lại thành từng đoạn, từng khúc, từng túi, từng bán vòng kiềng hay vòng kiềng ngoằn ngoèo theo tĩnh mạch nhỏ có màu bầm đen hoặc là xanh ưỡn nằm ở mặt da hay dưới da, như ở các bắp chân của phụ nữ thường nổi gân xanh.

Có những người bị đau lưng hoặc đau chân nổi lên những đoạn giãn mạch, chứa máu ứ bầm đen. Như trong bệnh nghề nghiệp của thợ may, thợ nhà in, lái xe… vì đứng hay ngồi lâu máu dồn xuống làm giãn mạch, lâu ngày chầy tháng thành tật, chân thường đau nhức.

Những người bị liệt nửa người, đau dây thần kinh hông to, do bị trúng khí lạnh hoặc nước lạnh thấm vào làm khí huyết ngưng trệ từng nơi, từng chỗ thành những đoạn ứ huyết bầm xanh nằm trong phần mềm hay dưới da, làm đau buốt, đi đứng nằm ngồi thấy nhức nhối khó chịu.

Khi có ứ huyết các tế bào bị nhiễm độc, dây thần kinh bị chèn ép khó hoạt động, tuần hoàn bị trở ngại, các cơ cứng co duỗi khó khăn, tay chân bị tê, liệt. Nếu ta tìm chích cho thật hết những điểm ứ huyết đó, loại được máu độc ra khỏi vết thương tại chỗ, làm cho khí huyết lưu thông điều hoà, tuần hoàn máu hoạt động bình thường thì con người khoẻ lại.

7.3. Đọng huyết:

Là trạng thái máu đọng lại, chứa trong từng bọc, từng vũng hay từng lỗ sưng lên bầm tím, máu đen bầm. Có khi da thịt bị nứt toét rồi máu chảy ra chưa hết mà chỗ da đã lành lại nên còn bọc trống chứa một ít máu gây đau nhức khó chịu. Nguyên nhân là do trong cơ thể nơi nào đó bị đánh, đập, va vấp, chấn thương; các bắp thịt, các cơ nơi đó bị giập, bị huỷ hoại, các thành mạch bị đứt, máu chảy ra dồn lại, đọng tại vết thương. Vết thương bên trong chưa lành mà da bên ngoài đã liền trước rồi, nên bọc máu đen còn bên trong gây nhức buốt khó chịu.

Dùng kim tiêm thuốc để chích và hút máu đọng ra nếu thấy cần thiết, còn thì phải dùng kim hơi to chích ngay vào điểm đau, điểm đọng cho máu đọng phụt chảy ra, cần nặn thêm để hết máu đen, máu bầm. Tiếp tục chích và rút máu bầm ra nhiều lần, máu mới tới thay thế và sinh tế bào mới làm liền vết thương.

Có những người bị té dập đầu xuống đất, làm bể thành mạch máu bên trong da đầu, máu đó chèn ép các dây thần kinh bên trong, làm cho chóng mặt mỗi khi cử động cúi đầu… Có người hàng 10 năm hay 20 năm, uống thuốc và điều trị bằng nhiều cách không hết, chỉ cần lể và lấy máu ứ ở nơi đó ra là hết bệnh ngay.

7.4. Xuất huyết:

Là trạng thái vỡ thành mạch máu; máu chảy ra ngoài mạch đọng lại thành từng vệt, từng đám xuất huyết lớn nhỏ hơn đồng xu; màu thâm tím, loang lổ chỗ trắng, chỗ xanh nằm dưới da hoặc lộ trên mặt da. Chèn ép các mạch máu khác gây tê mỏi, khó chịu. Thường có ở bắp chân, bắp tay. Dân gian thường gọi là bị "ma cắn" vì từ tối đến nửa đêm chưa thấy gì, mà sáng ngủ dậy lại thấy xuất hiện từng vệt như thế.

Những đám xuất huyết ở chân là do ta xoay trở chân một cách bất ngờ, hay chân bị va chạm mạnh, thành mạch nơi đó yếu mỏng bị vỡ mạch, máu chảy ra thành từng vệt. Cũng có trường hợp nửa đêm thời tiết thay đổi đột ngột từ nóng sang lạnh hoặc từ lạnh sang nóng một cách nhanh chóng, làm cho thành mạch bị xơ cứng và bị bể.

Có những trường hợp xuất huyết do máu của người bệnh có nhiều nhiệt độc, bào mòn thành mạch, làm cho thành mạch bị lủng. Có khi thành mạch thưa, máu thấm ra ngoài thành từng đám, làm cho da thịt xung quanh đó bị tê mỏi.

Những loại xuất huyết trên ta lể kế những miệng bị bể, nặn máu trong các vệt xuất huyết ra hết. Nếu chỗ nào còn bầm chưa ra được thì ta lể ngay chỗ bầm đó mà nặn cho hết máu. Rồi những vệt xuất huyết đó trong vài ngày sẽ tan dần, mặt da sẽ trở lại bình thường.

Còn những trường hợp xuất huyết nội như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não… khoa chích lể không được phép can thiệp.

7.5. Điểm sưng:

Máu có nhiệt độc và xông lên ở một điểm nào đó, rồi trương lên thành từng u, từng gò hay từng mụt trong vùng đau. Có những mụt sưng to, có tia máu đỏ bầm tập trung lên đỉnh của mụt đó, gây nóng nhức khó chịu. Có những gò sưng nóng lên, đỏ và rất nhức nhối như trường hợp bệnh đau khớp cấp. Có khi có những mụn đỏ nổi lên mặt thường thấy ở giới phụ nữ làm ê ẩm khó chịu. Cũng có những u nhọt sưng đỏ ở đầu trẻ em làm đau nhức ran thường do thời tiết oi bức kéo dài mà ra hoặc do khí huyết cha mẹ truyền lại hoặc đã dùng thực phẩm không lành, không hợp.

Với những mụt sưng như thế, khi lể ta phải nặn cho hết máu độc, máu bầm làm cho mụt nhọt thật xẹp xuống bệnh mới khỏi nhanh được. Nếu mụt đang nung mủ thì nên xử lý bằng các phương thức của Tây y như kháng sinh, tiểu phẫu…; chỉ trừ trường hợp bất khả kháng thì cần đợi cho chín muồi, tìm thuốc phá miệng cho ra mủ hoặc đâm kim ngay chỗ có mủ và nặn cho ra hết mủ, làm nhiều lần như thế để nặn thật hết máu độc, chỗ sưng xẹp xuống, da thịt trở lại bình thường.

Những mụt đinh râu (mụt bạc đầu) ở trên môi, cằm rất nguy hiểm, không nên lể mà cũng không nên dùng móng tay cào phá mụt đinh râu vì dễ bị nhiễm trùng, nhất là nhiễm trùng huyết rất nguy hiểm…; nên xử lý bằng các phương thức của Tây y.

7.6. Điểm ngưng dịch:

Điểm ngưng của các chất dịch không phải là máu.

Trên mặt da của cơ thể thường ở tay, chân, ngực, lưng, trán… bất ngờ thấy nổi cộm lên những gò nhỏ bằng đầu ngón tay, có khi lớn bằng quả cam, màu sắc giống màu da nhưng hơi láng, làm cho người bệnh mệt mỏi, ê ẩm khó chịu. Khi chích, ta thấy chảy ra chất dịch màu vàng đôi khi đục đục. Nặn hết chất dịch ra, hạch xẹp xuống, da trở lại bình thường, người cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu.

Ở những người bị phù, thũng, trên mặt da thỉnh thoảng thấy có chỗ láng bóng bằng phẳng, không phồng u lên; nếu chích vào thì dịch như huyết tương sẽ chảy ra.

7.7. Điểm đọng đặc:

Thỉnh thoảng ở vùng lưng, hông hay chân tay, người ta thấy hiện ra những mụt u có màu sắc của da bình thường, không sưng đỏ, không gây nhức nhối, nhưng làm khó chịu. Đó là nang tuyến mồ hôi phì đại. Sau khi chích vào đúng giữa mụt, chất đặc dẻo như keo hoặc màu trắng như bã đậu, có khi màu đen phọt chảy ra. Nặn xong, mụt xẹp xuống, da bình thường trở lại, nếu không bóc nang ra thì thường tái phát.

7.8. Điểm tê đau:

Là nơi có hiện tượng tụ huyết, ứ huyết, xuất huyết hay đọng huyết nằm sâu trong phần mềm của thịt gây nhức nhối mà ta không trông thấy được. Trường hợp này người bệnh cần cho biết nơi nào tê đau nhất, ta ấn đầu ngón tay thẳng đứng vào đó, nếu người bệnh cảm thấy đau tê thì ta lể ngay tại chỗ, đúng tâm điểm tê đau, máu phụt chảy ra, ta nặn cho hết máu độc.

Trước khi muốn chích lể, ta đề nghị người bệnh chỉ điểm đau và ấn vào bằng ngón tay thẳng đứng, nơi nào thấy đau nhói nhất thì chọn nơi đó. Dùng kim đâm thẳng mạnh sâu vào trung tâm điểm đau, nặn hết máu độc ra.

Đa số điểm đau nằm sâu trong phần mềm, trong da thịt, không nhìn thấy được. Do đó khi khám bệnh phải phối hợp giữa thầy thuốc với người bệnh cho tốt.

7.9. Điểm chỉ định:

Ở người bệnh không tìm được điểm tê đau.

Nguyên tắc chung của chích lể là đau đâu, lể đó, nhức chỗ nào, lể chỗ ấy. Khi không tìm thấy các loại dấu vết biểu hiện trên, ta lể một số điểm chỉ định biết được theo kinh nghiệm cổ truyền. Một tạng phủ nào đó bị tổn thương gây bế tắc kinh mạch tương ứng với các điểm chỉ định liên hệ. Lể các điểm này, rồi nặn hết máu độc ra để khí huyết lưu thông điều hòa, tức là phục hồi được chức năng của tạng phủ ấy.

Chích lể theo điểm chỉ định, thường gặp ở những người bị bất tỉnh nhân sự, á khẩu, phạm phòng…

8. Chỉ định:

- Chích lể được chỉ định để điều trị một số bệnh toàn thân cũng như tại chỗ, từ các bệnh nội thương đến các chứng ngoại cảm, các bệnh cấp tính và mạn tính.

- Các chứng bệnh cấp tính như trúng gió, say nắng, giật kinh phong ở trẻ con, cơn tăng huyết áp khi không có sẵn trong tay thuốc hạ áp.

- Các chứng bệnh khác như đau đầu, mất ngủ, đau lưng, táo bón, hen suyễn, đau thần kinh hông to, đau nhức cơ xương khớp, chắp lẹo, tắt tia sữa…

9. Chống chỉ định:

- Người bệnh có chỉ định cấp cứu ngoại khoa.

- Người bệnh đang sốt kéo dài hoặc mất nước, mất máu.

- Người bệnh suy tim, loạn nhịp tim, suy giảm miễn dịch, bướu máu, ưa chảy máu, máu khó đông, sau khi xuất huyết hoặc hạ đường huyết.

- Người bẩm sinh tố chất suy nhược hoặc bệnh lâu ngày cơ thể suy nhược.

- Phụ nữ mang thai hoặc sinh non mang tính mạn tính.

- Người bệnh vừa uống rượu, mệt, quá no, quá đói, quá hồi hộp… phải đợi họ trở về trạng thái bình thường rồi mới chích lể.

10. Vị trí trị liệu:

10.1. Các dấu vết đặc trưng như trên

10.2. Các huyệt đặc biệt:

Lấy ngũ du làm huyệt chủ. Ngũ du huyệt có mối quan hệ cực kỳ mật thiết với kinh lạc của phủ tạng, cho nên chọn những huyệt thuộc loại này thường có thể thu được những hiệu quả đặc biệt.

10.3. Kỳ huyệt:

Kỳ huyệt có thể dùng cho chích máu trị liệu các chứng cấp tính, lâm sàng chứng thực, chích máu ở kỳ huyệt thì hiệu quả chắc chắn. Như với huyệt thập tuyên, sách Châm cứu đại thành ghi "trị nhủ nga dùng tam lăng châm để chích máu, thì rất hiệu quả"…

11. Dụng cụ:

11.1. Kim đá:

Cùng với sự phát triển của châm cứu, thì dụng cụ dùng cho phương pháp trị liệu này cũng không ngừng cải tiến, hiện nay người ta đã dùng nhiều loại dụng cụ châm chích khác để châm chích vào kinh lạc để giải phóng huyết dịch.

11.2. Phúng châm:

Bắt chước dạng kim sợi, thân kim bằng tre, mũi nhọn, dài một tấc sáu phân, chủ yếu dùng chích máu trị ung nhiệt. Tam lăng châm ngày nay chính là sự phát triển của phúng châm mà ra, là công cụ thường dùng trong châm chích vào kinh lạc giải phóng huyết dịch.

11.3. Sàm châm:

Kích thước kim 1 thốn 6 phân, chủ yếu dùng châm nông ở da thịt cho xuất huyết. Hiện sàm châm được ứng dụng và phát triển thành mai hoa châm để châm chích vào kinh lạc giải phóng huyết dịch.

11.4. Phi châm (kim dài):

Bắt chước ở mũi kiếm, rộng 2 phân rưỡi, dài 4 tấc, chủ yếu dùng trị bướu mũ. Như nay thường dùng dao mổ rạch khối u, để nặn máu và mủ ra ngoài.

11.5. Hào châm:

Bắt chước ở hình dáng của lông, dài một tấc sáu phân, châm vào lạc trị các chứng tê đau do hàn nhiệt. Kiểm nghiệm nó trong lâm sàng, thường dùng hào châm thô chích vào kinh lạc để giải phóng huyết ứ.

Trên lâm sàng thường dùng tam lăng châm, hào châm thô, mai hoa châm cũng như dao mổ để làm công cụ chích ra máu.

11.6. Dụng cụ khác:

Ngoài việc chọn kim để chích lể ra, còn cần có các dụng cụ như khay men, kìm có mấu, bông vô trùng (có và không có tẩm cồn), cồn700, găng tay vô khuẩn.

12. Tư thế người bệnh:

Tùy theo vị trí, vùng bị bệnh, nơi cần chích lể mà ta đặt người bệnh ở tư thế thích hợp nhất, để dễ dàng tiến hành chích lể. Thường để người bệnh nằm ngửa, sấp hay nghiêng; tránh để người bệnh đứng hay ngồi. Dù người bệnh ở tư thế nào, cũng cần quan tam mấy điểm sau:

- Người bệnh được thoải mái, không bị gò bó thì mới có thể giữ vị trí đó lâu, không mệt mỏi, không căng thẳng hay choáng váng.

- Khi nào cũng tạo cho người bệnh có chỗ dựa vững chắc.

- Bố trí tư thế người bệnh sao để vị trí cần chích lể hướng ra nơi ánh sáng, cốt để quan sát rõ các điểm cần chích lể.

- Khi nằm người bệnh phải có gối để gối đầu, nếu cần thì thêm gối chân hay tay để thoải mái.

13. Phương pháp thao tác:

13.1. Lạc thích:

Là châm chích vào huyệt mạch của tiểu lạc. Thích hợp cho việc châm chích vào đầu các chi hoặc các động mạch nông nhỏ. Khi thao tác thì chích vào phải nhanh, rồi lập tức rút kim ra, sau đó dùng tay nặn tại vị trí châm cho ra máu. Thường dùng trị các chứng như sốt cao co giật, trúng gió hôn mê, say nắng, ngứa họng, mất tiếng, mắt bốc hỏa.

13.2. Tán thích:

Là chích thẳng rút thẳng, châm nhiều phát và cạn cho ra máu. Tức là dùng kim tam lăng châm nhiều điểm trên vùng phát bệnh, khiến cho ra máu. Thường dùng để chích xả máu độc trong điều trị các chứng như ung nhọt.

13.3. Báo văn thích:

Là châm trái phải trước sau vào vị trí cần châm, trúng mạch là được, để lấy máu cho kinh lạc. Thích hợp dùng để điều trị các chứng ung nhọt, chứng tê, dịch độc, bệnh mũi đỏ, bệnh sưng miệng. Về thao tác thì châm trực diện xung quanh vùng bị đau hoặc bốn phía nơi sưng đỏ nhiều lần, sau đó dùng hai tay ấn nhè nhẹ hoặc dùng giác hơi để hút ra, khiến cho máu độc bị hút hết ra ngoài, tiêu trừ sưng đau.

13.4. Đại tả thích:

Là chích lấy mủ với phi châm. Về mặt lâm sàng thì thường dùng dao mổ để rạch vùng sưng mủ, để lấy sạch hết mủ giảm sưng; cũng có thể dùng để rạch tĩnh mạch nhỏ bề mặt. Thích hợp cho những trường hợp mà lượng dịch huyết muốn loại bỏ tương đối nhiều.

13.5. Mao thích:

Là chích vào vùng da tê phù. Khi chích dùng mai hoa châm đánh khỏ vào vùng bệnh, khiến cho xuất huyết nhẹ trên một vùng cục bộ, cũng có thể khiến cho vùng da cục bộ nào đó ửng đỏ, sao cho xung huyết vùng bệnh là được. Thích hợp dùng cho các chứng bệnh vùng da do tà khí làm tổn thương các kinh lạc bề mặt, như tê da, rụng tóc, viêm da mạn tính.

Căn cứ vào tình trạng khác nhau của bệnh mà chọn dùng phương pháp, thao tác khác nhau, sử dụng một cách linh hoạt trong ứng dụng lâm sàng.

14. Thủ thuật cơ bản:

- Xác định và sát trùng da vùng huyệt cần chích lể.

- Nặn dồn cho máu tập trung về vị trí định chích lể.

- Dùng ngón tay cái và ngón trỏ tay trái véo bóp mạnh da vùng huyệt; ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm kim một cách chắc chắn, châm kim thẳng góc, mạnh và dứt khoát qua da đúng giữa vùng huyệt.

- Rút kim ra và nặn máu từ từ, ấn êm sâu vào đáy điểm đau làm cho máu độc trào ra ở lỗ chích lể, dùng bông vô khuẩn không có cồn để thấm máu nặn ra. Nặn hết máu độc - máu đỏ bầm - thì sát trùng lại vết chích lể.

15. Lượng máu loại bỏ:

Trong sách Nội kinh những ghi chép về việc lượng máu loại bỏ đi bao nhiêu cũng không thống nhất với nhau, chủ yếu có liên quan đến các nhân tố dưới đây.

15.1. Liên quan đến vị trí bộ phận chích lấy máu:

Sách Tố vấn - thiên Thích yêu thống khi ghi chú về chích huyệt ủy trung loại bỏ máu ở tĩnh mạch để điều trị liệu chứng đau lưng đã chỉ ra: “Chích cho máu chảy ra chuyển từ màu đen đến khi thấy màu đỏ là được”. Máu đen chảy hết và chuyển sang đỏ, lúc này thì huyết ứ trong lạc cũng đã được loại bỏ hết, từ đây có thể thấy lượng máu loại bỏ khỏi tĩnh mạch phải tương đối nhiều. Còn khi chích loại bỏ máu từ các động mạch nông bề mặt hoặc đầu các chi của cơ thể, thì lượng máu loại bỏ phải ít.

15.2. Liên quan đến sự mạnh yếu của thể chất:

Sách Tố vấn - thiên Thích ngược có ghi: “Lượng máu chích bỏ đi phải thích ứng với sự gầy ốm của cơ thể”. Vương Băng (Trung Quốc) đã phát huy thêm đối với chỉ dẫn này: “Người gầy yếu thì chích cạn loại bỏ ít máu, người béo khỏe thì chích sâu cho máu ra nhiều”. Điều này đã nói rõ thể chất mạnh yếu khác nhau, thì phương pháp chích và lượng máu loại bỏ cũng có sự khác biệt, tức là người có thể hình béo khỏe, thể chất tráng kiện thì lượng máu loại bỏ có thể hơi nhiều, còn đối với người ốm mà thể hình gầy yếu, thể chất suy nhược thì lượng máu loại bỏ phải ít.

15.3. Liên quan đến tình trạng của bệnh:

Nếu bệnh tình tương đối ngắn, tình trạng bệnh tương đối nhẹ, tà khí xâm nhập còn cạn và nhẹ, lượng máu loại bỏ nên ít. Ngược lại, nếu bệnh tình tương đối dài, tình trạng bệnh tương đối nặng, bệnh đã thâm nhập sâu vào cơ thể, thì lượng máu loại bỏ phải hơi nhiều một chút.

Cho dù loại bỏ máu nhiều hay ít thì chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, nhưng phải lấy nguyên tắc xả huyết trừ tà bệnh nhưng không làm tổn thương chính khí làm nguyên tắc căn bản và vận dụng một cách linh hoạt.

16. Liệu trình:

- Bệnh cấp tính: mỗi ngày chích lể 1 - 2 lần, mỗi liệu trình điều trị từ 5 - 10 ngày.

- Bệnh bán cấp tính và mạn tính: mỗi ngày chích lể một lần, một liệu trình điều trị từ 10 - 20 ngày, người bệnh nghỉ 5 - 7 ngày để điều trị liệu trình tiếp theo.

17. Tai biến và cách xử lý:

17.1. Vựng châm:

Người bệnh hoa mắt chóng mặt, vã mồ hôi, mạch nhanh, sắc mặt nhợt nhạt. Xử lý: rút kim ngay, lau mồ hôi, ủ ấm, uống nước (đường, sữa…) nóng, cho người bệnh nằm nghỉ tại chỗ. Day bấm các huyệt thái dương, nội quan. Theo dõi sát mạch, huyết áp.

17.2. Máu chảy quá nhiều khi rút kim:

Dùng bông khô vô khuẩn ấn tại chỗ, không day, sau đó dùng miếng gạc vô khuẩn băng ép lại bằng băng dính.

17.3. Nhiễm trùng vết chích lể:

Biểu hiện bằng sưng đau tại chỗ chích lể. Xử lý: tạm ngừng việc chích lể, sát trùng vùng da bị sưng bằng dung dịch cồn Iod, dùng kháng sinh đường uống.

18. Ứng dụng:

18.1. Trúng phong (giai đoạn cấp):

Lể các huyệt thập tuyên, nhân trung, thái dương, ấn đường.

18.2. Bất tỉnh nhân sự:

Lể ở các huyệt ấn đường, nhân trung, thập tuyên.

18.3. Chắp lẹo:

Lể các huyệt phế du, nhĩ tiêm (can nhiệt huyệt), thâu châm.

18.4. Tắc tia sữa:

Lể các huyệt kiên tỉnh, thiếu trạch.

18.5. Đau lưng cấp:

Lể các huyệt nhân trung, hậu khê, ủy trung.

18.6. Đau đầu do ngoại cảm:

Cách 1: Lể các huyệt khúc trì, thái dương, ấn đường.

Cách 2: Lể các điểm tụ huyết tại vùng đầu, trán, thái dương.

18.7. Phong ngứa ở chân:

Lể các điểm ứ huyết từ mông đến mắt cá chân.

18.8. Đau thần kinh hông to:

Cách 1: Lể các điểm tụ huyết và ứ huyết ở vùng thắt lưng; chân bị đau ở mông, đùi, gối và cẳng chân.

Cách 2: Dùng kim tam lăng chích lể cục bộ lên các huyệt ủy trung, thận du và a thị huyệt; sau đó có thể kết hợp với giác.

18.9. Tay chân tê mỏi:

Lể các điểm tụ huyết (gặp nhiều) và ứ huyết (ít gặp) ở tứ chi, bả vai và mông.

18.10. Hen suyễn:

Cách 1: Lể điểm tụ huyết ở vùng ngực, hai vai, lưng, hai hông, lòng bàn tay.

Cách 2: Dùng kim tam lăng chích vào các huyệt phế du, phong môn (có thể kết hợp thêm các huyệt phong long, xích trạch) hoặc huyệt vị nằm gần các huyết lạc có ứ tắc nổi rõ.

Cách 3: Chọn chỗ các huyệt công tôn, nhiên cốc mép trong chân; nếu lạc mạch nổi lên màu tím tái thì dùng kim tam lăng chích vào loại bỏ máu, máu rịn ra thành giọt là được.

18.11. Say nắng:

Dùng kim tam lăng chích tức tốc vào các huyệt bách hội, nhân trung và thập nhị tỉnh; khiến cho mỗi huyệt được điểm chích ra khoảng 3 - 5 giọt máu.

19. Lưu ý:

- Cần phải tuân thủ vô trùng tuyệt đối đối với các dụng cụ và bộ phận được chích lể, tránh để lây bệnh qua đường truyền nhiễm.

- Khi dùng kim tam lăng điểm chích, động tác phải nhẹ nhanh, điểm chích không nên quá sâu, tránh tổn thương đến động mạch chủ.

- Khi dùng mai hoa châm thì phải dùng phương pháp khỏ mạnh, có thể kết hợp với giác hơi, mới có thể hút máu độc ra ngoài, sau khi chích gõ nếu máu ra nhiều, thì không cần dùng đến giác.

- Các phương pháp chích và xả huyết, nếu bệnh đã giảm nhiều rồi, thì không nên chích bỏ máu tiếp, để tránh tổn thương đến chính khí của cơ thể.

- Người bệnh mới chích lể lần đầu hay hồi hộp, sợ sệt, cần được giải thích kỹ lưỡng, để làm cho họ yên tâm và tin tưởng. Những trường hợp này, cần phải thao tác chích lể nhẹ nhàng, thận trọng, tìm chỗ nào ít đau nhất chích lể trước để người bệnh quen dần.

- Sau khi chích lể, cần cho người bệnh làm những cử động cần thiết để kiểm tra kết quả điều trị, trường hợp chưa đạt nếu cần có thể lể thêm một ít nữa.

- Cần dặn dò người bệnh, chích lể xong không nên tắm ngay bằng nước lạnh, không lao động ngay, nhất là lao động mạnh, không uống rượu bia.

- Người bệnh cần làm thêm ở nhà các động tác xoa bóp, ấn nắn bằng tay hay bằng dầu nóng trên những vùng vừa chích lể để khí huyết lưu thông dễ dàng, làm khoan khoái, góp phần mau bình phục.

20. Kinh nghiệm cá nhân:

Cá nhân tôi thường lể huyệt phế du để chữa chắp lẹo, nhất là cho các cháu nhỏ, thường lể cả 2 bên, hiệu quả rất tốt. Thường thì hiệu quả khá cao ở những người mới bị bệnh, có những trường hợp để cả hơn tuần lể hiệu quả không cao lắm. Rồi lể huyệt ủy trung để chữa đau lưng…

Đặc biệt tôi được một anh đồng nghiệp chỉ cho lể huyệt kim tân, ngọc dịch để chữa viêm họng, viêm xoang, lở loét khoang miệng, khàn giọng. Trong quá trình thực hành, đã chữa nhiều trường hợp hiệu quả khá tốt. Lể chữa viêm họng cấp, khàn giọng đa phần chỉ lể một lần; còn để chữa viêm xoang, viêm họng mạn, lở khoang miệng thường phải lể nhiều lần, mỗi lần cách nhau khoảng 5 ngày. Không những các bệnh theo chủ trị của huyệt, một số trường hợp ho lâu ngày (có khi kết hợp thêm với cấy chỉ) cũng đem lại hiệu quả cao. Lể huyệt này tôi thường dùng bơm kim tiêm để dễ thao tác, chứ không dùng kim tam lăng. Trước khi làm hướng dẫn người bệnh cách cong lưỡi lên cho lưỡi chạm vào hàm răng trên, để lộ huyệt và giữ không để lưỡi thụt vào. Có vài người bệnh không thể làm được việc cong lưỡi lên!!! Sau này, đọc trong sách Liệu pháp cắt lể, phần viêm họng có ghi cách lể huyệt này, phối hợp với lể huyệt thiếu thương như sau: "Dùng tam lăng châm điểm chích các huyệt kim tân, ngọc dịch cho ra máu, đồng thời điểm chích vào cặp huyệt thiếu thương, mỗi huyệt cho ra khoảng 3 - 5 giọt máu là được, mỗi ngày thực hiện trị liệu 1 lần, 3 lần là 1 liệu trình. Dùng để trị liệu viêm họng cấp tính".

Đăng kí nhận tin