CÀ GAI LEO - CÂY THUỐC QUÝ CHO NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN B MẠN TÍNH, XƠ GAN

CÀ GAI LEO - CÂY THUỐC QUÝ CHO NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN B MẠN TÍNH, XƠ GAN

 

Cà gai leo còn có các tên khác: cà quánh, cà quýnh, cà vạnh, cà cườm, cà gai dây. Tên khoa học: Solanum procumbens Lour (tên đồng nghĩa Solanum hainanense Hance), họ Cà (Solanaceae). Kỹ thuật trồng cây cà gai leo không quá khó, chỉ cần chăm sóc tốt, sau khoảng 5 - 6 tháng đã có thu nhập khá nhờ vào việc bán cây cà gai leo khô làm dược liệu.

1. Đặc điểm thực vật:

Cây mọc hoang ở khắp nơi dọc các bờ bụi, bờ rào; có thể trồng bằng cành hay hạt vào đầu mùa mưa. Cây leo, thân dài 0,6 - 2m, nhiều gai, sống nhiều năm. Thân hóa gỗ ở gốc, nhẵn, phân cành nhiều; cành non tỏa rộng, phủ lông hình sao và rất nhiều gai cong màu vàng. Lá mọc so le, hình trứng hay thuôn, mép nguyên hay hơi lượn; phiến lá dài 3 - 4cm, rộng 1,2 - 2cm, có thùy nông không đều; mặt trên sẫm, mặt dưới nhạt phủ đầy lông tơ màu trắng, hai mặt đều có gai ở gân chính (nhất là mặt trên), cuống lá cũng có gai. Hoa tím nhạt, 4 cánh, nhị vàng, họp thành xim ở ngoài kẽ lá 2 - 5 hoa (ít khi 7 - 9 hoa). Quả hình cầu, đường kính 5 - 7mm, bóng, nhẵn, cuống dài, màu vàng sau đỏ. Hạt hình thận, màu vàng, có mạng. Mùa hoa quả từ tháng 4 - 8 hoặc tới tháng 9.

2. Phân biệt cây nhần lẫn:

- Do truyền tai nhau về tác dụng tốt của cà gai leo trên gan nên nhiều người dân tự thu hái dược liệu tự nhiên hoặc mua dược liệu trôi nổi trên thị trường không rõ nguồn gốc; điều này rất nguy hiểm, do cà gai leo rất dễ nhầm lẫn với một số dược liệu khác. Điển hình là nhầm lẫn với cây Solanum thorelii Botani, cây này cũng cùng họ và rất giống với cà gai leo nhưng chỉ khác là cụm hoa đơn độc, chứ không mọc thành xim, hoa có 5 cánh chứ không phải 4 cánh như cà gai leo, quả màu lục điểm trắng, khi chín vàng hay đỏ, đường kính 1,2 - 1,5cm.

- Đặc biệt, các cây trong họ Cà có rất nhiều cây có đặc điểm giống nhau, nếu nhầm sang cây có độc tính mạnh như cà độc dược thì vô cùng nguy hiểm, có thể gây tử vong.

3. Kinh nghiệm trong dân gian:

3.1. Bộ phận dùng: Dùng rễ (thích gia căn) và dây (thích gia đằng). Đào rễ về, rửa sạch, xắt mỏng, phơi hay sấy khô. Dùng dây thì cắt ngắn từng đoạn 2cm, phơi khô hoặc sao vàng dùng. Có khi dùng tươi.

3.2. Tính vị, tác dụng: Vị hơi the, đắng, tính ấm, hơi có độc. Tác dụng: tán phong thấp, tiêu độc, trừ ho, giảm đau, cầm máu.

3.3. Công dụng, liều lượng, cách dùng: Trị cảm cúm, phong thấp, đau nhức các đầu gân xương, sâu răng, răng sưng đau, chân răng chảy máu, giải độc rượu bia, làm mát gan, chống say tàu xe. Có nơi dùng chữa rắn cắn và dị ứng. Ngày dùng 16 - 20g, dạng thuốc sắc uống.

3.4. Một số ứng dụng:

- Chữa viêm gan, xơ gan: cà gai leo (thân, rễ, lá) 30g, cây dừa cạn 10g, cây chó đẻ răng cưa (diệp hạ châu) 10g; tất cả sao vàng, sắc uống mỗi ngày một thang. Người có các bệnh về gan (viêm gan B, xơ gan...): 35g rễ hoặc thân lá cà gai leo, sắc với 1 lít nước, còn 300ml chia uống 3 lần trong ngày, giúp hạ men gan, và giải độc gan rất tốt.

- Chữa tê thấp, đau lưng, nhức mỏi: cà gai leo 10g, dây gấm 10g, thổ phục linh 10g, kê huyết đằng 10g, lá lốt 10g. Sao vàng, sắc uống ngày 1 thang.

- Chữa chứng ho gà: cà gai leo 10g, thiên môn 10g, mạch môn 10g. Sắc ngày 1 thang chia 3. Hoặc rễ cà gai leo 10g, lá chanh 30g sắc uống.

- Làm giải rượu: 50g cà gai leo khô hãm với nước sôi, cho người say rượu uống thay nước. Tác dụng bảo vệ tế bào gan mạnh đến nỗi khi uống rượu chỉ cần chà răng hoặc nhấm rễ cà gai leo thì sẽ tránh được say, nếu bị say thì uống nước sắc của rễ hoặc thân lá sẽ nhanh chóng tỉnh rượu. Cây cà gai leo chặt nhỏ sao thơm đem ngâm trong rượu, sau một đêm sẽ phá hủy hầu hết lượng cồn có trong rượu, điều này lý giải khả năng chống say và giải độc rượu mạnh của cà gai leo. Hiện nay, cà gai leo là cây thuốc duy nhất có thể trung hòa và phá hủy các chất cồn (rượu).

- Chữa ho do viêm họng: rễ hoặc thân và lá cà gai leo 15g, lá chanh 30g, sắc uống làm 2 lần trong ngày. Uống khi thuốc còn ấm.

4. Một số kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học:

Đề tài luận án tiến sĩ “Nghiên cứu cây cà gai leo (Solanum procumbens Lour. Solanaceae) làm thuốc chống viêm gan và ức chế xơ gan” của tác giả Nguyễn Thị Bích Thu thực hiện từ năm 1998 đến năm 2002 do PGS.TS Phạm Kim Mãn và GS. Đoàn Thị Nhu hướng dẫn công bố cụ thể về hóa học:

- Đã chứng minh thân, lá, rễ và quả cà gai leo có những thành phần hóa học chủ yếu như alcaloid, glycoalcaloid, steroid saponin, flavonoid, phytosterol, chất béo, carotenoid, coumarin, acid hữu cơ, đường khử tự do, acid amin.

- Kết quả của đề tài cũng chứng minh glycoalcaloid là hoạt chất chính có tác dụng ức chế sự phát triển xơ gan, chống viêm, bảo vệ gan trong cao toàn phần của cà gai leo.

5. Một sô kết quả nghiên cứu về tác dụng bảo vệ gan:

5.1. Năm 1991, TS Nguyễn Minh Khai phát hiện ra dịch chiết của cây cà gai leo có tác dụng ngăn chặn sự phát triển xơ trên mô hình gây xơ gan thực nghiệm trên chuột.

5.2. Năm 1998, trong luận án tiến sĩ y học: “ Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng tổn thương gan do tiếp xúc nghề nghiệp với trinitrotoluen và thăm dò tác dụng bảo vệ gan của cà gai leo trên thực nghiệm.” của Nguyễn Phúc Thái do PGS.PTS Nguyễn Khắc Hải và GS. TS Nguyễn Phúc Hưng cho thấy: Dịch chiết từ cây cà gai leo có tác dụng đáng kể trong việc bảo vệ gan dưới tác dụng độc của trinitrotoluen trong nghiên cứu thực nghiệm kéo dài 6 tuần. Những tác dụng thể hiện rõ thông qua việc hạn chế hủy hoại tế bào gan (giảm bớt việc tăng men gan so với lô chuột không uống cà gai leo); hạn chế việc tăng trọng lượng gan do nhiễm độc trinitrotoluen và giảm bớt các biểu hiện tổn thương gan trên tiêu bản vi thể (lô uống trinitrotoluen có cà gai leo không bị mất cấu trúc nan hoa tiểu thùy gan và không có hiện tượng chảy máu nhu mô gan). Đây là những bằng chứng cụ thể về hiệu quả bảo vệ gan của dịch chiết cây cà gai leo.

5.3. Năm 1999, những công bố đầu tiên về độc tính cấp, bán trường diễn, tác dụng chống viêm, tác dụng trên colagenase, hoạt tính chống oxy hóa, tác dụng trên miễn dịch, ức chế quá trình xơ gan trên thực nghiệm do nhóm tác giả TS. Nguyễn Thị Bích Thu, TS. Nguyễn Minh Khai, PGS. TS Phạm Kim Mãn và GS Đoàn Thị Nhu được công bố:

- Độc tính cấp: Chuột nhắt uống với liều gấp 500 lần liều dùng có tác dụng ở người tính theo kg thể trọng, chuột vẫn không chết chứng tỏ thuốc có độ an toàn cao về mặt độc tính cấp.

- Độc tính bán trường diễn: Độc tính bán trường diễn được thử trên thỏ với liều sử dụng trên người và liều gấp 5 lần liều sử dụng trên người.

- Về hóa sinh và huyết học không có tác dụng độc so với lô chứng

- Về mặt tổ chức học: Gan, thận, tinh hoàn (buồng trứng) không có sự khác biệt so với lô chứng.

Điều này chứng tỏ, sử dụng sản phẩm chiết xuất từ cây cà gai leo thực sự an toàn trên người bệnh.

- Tác dụng chống viêm: Kết quả chứng minh cao chiết toàn phần cà gai leo và glycoalcaloid (chiết xuất từ cao cà gai leo) có tác dụng chống viêm mạn có ý nghĩa thống kê.

- Tác dụng trên colagenase: Cao chiết toàn phần cà gai leo có tác dụng trên calagenase rõ rệt. Tác dụng ức chế colagenase góp một phần quan trọng trọng điều trị của cà gai leo đối với các bệnh như viêm khớp, viêm răng lợi…(những tổ chức chứa nhiều colagen, khi bị viêm colagenase sẽ được hoạt hóa làm phân hủy tổ chức bệnh lý này). Cà gai leo có tác dụng chống viêm, đồng thời có khả năng ức chế sự tiến triển của xơ. Tác dụng ngăn chặn sự tiến triển của xơ có thế do thuốc vừa có tác dụng ức chế sinh tổng hợp colagen lại vừa có vai trò kích hoạt colagenase làm hoạt hóa enzym này phân giải colagen làm giảm xơ.

- Tác dụng ức chế quá trình xơ gan: Sau 12 tuần thử nghiệm, kết quả của hai dạng dịch chiết toàn phần từ cây cà gai leo và glycoalcaloid trên mô hình xơ gan tỉ lệ giảm so với lô đối chứng (gây xơ gan nhưng không dùng thuốc) lần lượt là 27,0% và 27.6%. Điều này chứng tỏ: Cao chiết toàn phần và glycoalcaloid chiết từ cà gai leo có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của xơ trên mô hình xơ gan thực nghiệm.

- Hoạt tính chống oxy hóa: Dịch chiết toàn phần từ cây cà gai leo và glycoalcaloid đều có tác dụng chống oxy hóa có ý nghĩa tương ứng là 47,5% và 38,1%. Cà gai leo có tác dụng chống oxy hóa, bảo vệ gan, ngăn ngừa xơ gan vì làm giảm tổn thương do oxy hóa gây ra ở gan. Những kết quả thu được góp phần giải thích phần nào cơ chế tác dụng chống viêm và bảo vệ gan của cây cà gai leo.

5.4. Tác dụng lên hệ miễn dịch của cà gai leo: Trong đề tài tiến sĩ “Nghiên cứu cây cà gai leo làm thuốc chống viêm gan và ức chế xơ gan” của Nguyễn Thị Bích Thu, dịch chiết của cây cà gai leo có tác dụng kích thích sự tăng trưởng của các tế bào lympho T. Điều này chứng tỏ dịch chiết cà gai leo có tác dụng tăng cường miễn dịch cơ thể. Đây cũng là cơ sở để giải thích cho tác dụng chống virút viêm gan B của cây cà gai leo. Vì khi virút viêm gan B tồn tại trong cơ thể người bệnh và làm suy giảm hệ miễn dịch của cơ thể. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu thêm để chứng minh chắc chắn vấn đề này.

6. Nghiên cứu lâm sàng trên người bệnh viêm gan B mạn tính từ thuốc được bào chế từ cao cà gai leo:

6.1. Năm 1999, đề tài luận án tiến sĩ y học: “Một số đặc điểm lâm sàng, siêu cấu trúc gan và hiệu quả bước đầu điều trị bệnh nhân viêm gan virut B mạn hoạt động bằng thuốc cà gai leo” của Bác sĩ Trịnh Thị Xuân Hòa với sự hướng dẫn của PGS. PTS Nguyễn Văn Mùi và PGS. TS Nguyễn Tuấn Anh thu được kết quả tốt mở ra hướng điều trị mới cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính:

- Điều trị thuốc chứa 250mg cao cà gai leo/viên với liều uống 6 viên/ngày, trong 2 tháng. Đề tài thực hiện trên 60 người bệnh viêm gan B mạn tính thể hoạt động, 30 người bệnh uống thuốc từ cà gai leo kết hợp với phức hợp “cơ sở”, có đối chiếu so sánh với nhóm người bệnh chỉ điều trị đơn thuần bằng phức hợp thuốc “cơ sở”.

- Các người bệnh dùng thuốc có thành phần chiết xuất từ cà gai leo có tác dụng giảm nhanh các triệu trứng lâm sàng; transaminase và bilirubin về bình thường nhanh hơn; tổn thương giải phẫu bệnh lý giảm rõ rệt; hồi phục rõ rệt của các bào quan, nhân và màng tế bào gan. Tất cả các người bệnh điều trị đều ăn ngon, ngủ tốt và tăng từ 2-4 kg trong quá trình điều trị.

- Sau khi điều trị bằng chế phẩm từ cà gai leo, có 7 người bệnh (23,3 %) HBsAg trở về âm tính và 44% số người bệnh chuyển đảo huyết thanh biểu hiện bằng sự xuất hiện Anti-Hbe. So với nhóm người bệnh không sử dụng chế phẩm cà gai leo, không có người bệnh nào HBsAg âm tính, chỉ có 3 người bệnh (10%) chuyển đảo huyết thanh xuất hiện Anti-Hbe.

- Tiếp tục theo dõi nhóm người bệnh HBsAg trở về âm tính sau 6 và 12 tháng điều trị thấy vẫn giữ nguyên âm tính sau điều trị.

- Qua theo dõi 30 người bệnh viêm gan B mạn thể hoạt động được điều trị bằng chế phẩm từ cà gai leo, thấy thuốc không gây một triệu chứng bất thường nào trong suốt quá trình điều trị. Đối với công thức máu ngoại vi, thuốc cũng không gây ảnh hưởng gì đến số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu. Trên thực nghiệm, Viện Dược liệu Trung ương cũng đã chứng minh rằng với liều cà gai leo dùng gấp hàng trăm liều ở người cũng không gây ảnh hưởng gì đến động vật thực nghiệm và cũng không làm biến đổi các chỉ số huyết học và sinh hóa so với nhóm động vật chứng.

Như vậy, thuốc có thành phần chiết xuất từ cây cà gai leo có độc tính thấp và an toàn trong sử dụng điều trị. Đây cũng là ưu điểm thường thấy ở các thuốc có nguồn gốc từ thảo mộc.

6.2. Từ năm 2002 đến năm 2004, TS Nguyễn Minh Khai tiếp tục chủ nhiệm đề tài “ Nghiên cứu điều trị hỗ trợ bệnh nhân viêm gan virút B mạn hoạt động bằng thuốc HAINA” Lâm sàng giai đoạn 3:

- Viện Dược liệu trung ương chịu trách nhiệm sản xuất thuốc HAINA (có hàm lượng 250mg cao cà gai leo/viên) theo tiêu chuẩn cơ sở, cung cấp cho các cơ sở thử lâm sàng.

- Đề tài được thực hiện tại 3 bệnh viện: Bệnh viên TW Quân đội 108, Viện Quân y 103, Viện Quân y 354; mỗi bệnh viện thử nghiệm trên 30 người bệnh viên gan B mạn thể hoạt động có đối chứng với 30 người bệnh không dùng cà gai leo.

- Kết quả điều trị trên 90 người bệnh viêm gan B mạn thể hoạt động bằng thuốc từ cà gai leo hàm lượng 250mg cao cà gai leo, uống 6 viên/ngày trong 2 tháng so sánh với 90 người bệnh nhóm chứng (nhóm không dùng thuốc) tại 3 bệnh viện trên. Nhóm tác giả đã rút ra kết luận:

+ Thuốc từ cà gai leo có tác dụng giảm nhanh các triệu chứng lâm sàng (mệt mỏi, đau tức hạ sườn phải, nước tiểu vàng, da niêm mạc vàng….) sau một tháng điều trị. Sau 2 tháng điều trị thì đại đa số người bệnh đều hết các triệu chứng lâm sàng.

+ Các xét nghiệm sinh hóa, đặc biệt là enzym trasaminase (SGOT, SGPT) có ý nghĩa đánh giá khách quan tình trạng tổn thương tế bào gan ở người bệnh viêm gan B mạn thể hoạt động. Ở nhóm điều trị bằng cà gai leo, nhận thấy đại đa số người bệnh đều có xét nghiệm enzym trở về bình thường sau 1 tháng điều trị. Cùng với transaminase, bilirubin máu cũng trở về bình thường ở hầu hết người bệnh.

+ Ở cả 3 bệnh viện trên nhóm người bệnh điều trị bằng thuốc từ cà gai leo có tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh (nghĩa là xuất hiện Anti-Hbe, người bệnh hết HBeAg) cao lần lượt là 23,3%, 26,7% và 63,3%. So với interferon thời gian điều trị từ 4 - 6 tháng, cũng chỉ thấy có 25-35% người bệnh hết HbeAg.

+ Viện 354 có 5 người bệnh (16,6%) mất HBsAg, viện 103 có 1 người bệnh HBsAg (-) nhưng phải sau 6 tháng điều trị người bệnh này đã xuất hiện anti-HBs. Viện 103 có nghiên cứu nồng độ HBsAg cho 27 người bệnh kết quả cho thấy: nồng độ trung bình HBsAg ở nhóm được điều trị bằng cà gai leo giảm rõ rệt so với nhóm chứng (5589±358 so với 6418±312 với P < 0,001).

+ Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của sinh học phân tử, người ta đã áp dụng kỹ thuật PCR để chẩn đoán các tác nhân vi sinh vật gây bênh. Trong bệnh viêm gan B mạn, kỹ thuật PCR đã đếm được cụ thể số lượng của các copies của HBV để xác định nồng độ virút trong huyết thanh do đó có thể đánh giá chính xác sự nhân lên của virút, quá trình tiến triển của bệnh. Trong nghiên cứu này đã sử dụng xét nghiệm HBV-DNA. Kết quả ở nhóm được điều trị bằng HAINA ở cả 3 bệnh viện 103, 354, 108 thấy có 40%, 66,7%, 66,7% (cả 3 bệnh viện 62,9%) người bệnh có HBV-DNA < 5copis/ml, có ý nghĩa là nồng độ virút ở mức thấp. Để đánh giá thêm, viện 103 đã điều trị cho 7 người bệnh kéo dài 6 tháng, nhận thấy kết quả tốt hơn, có thêm 2/7 người bệnh chuyển đảo huyết thanh, có thêm 2 người bệnh HBV-DNA <5copies/ml và đặc biệt có 1 người bệnh sau 4 tháng điều trị HBsAg về âm tính và đến tháng thứ 5 xuất hiện anti-HBs.

+ Tại Viện 103: 7 người bệnh được điều trị bằng cà gai leo kéo dài 6 tháng kết quả có 1 người bệnh mất HBsAg và xuất hiện Anti-HBs.

+ Thuốc không gây một tác dụng ngoại ý nào nào trên lâm sàng.

Những kết quả nghiên cứu trên đã chứng minh rằng cây cà gai leo có tác dụng tốt trong việc điều trị các bệnh về gan: giải độc gan, chống xơ gan. Sản phẩm chiết xuất từ cây cà gai leo thực sự an toàn trên người bệnh.

7. Kinh nghiệm dân gian cho rằng nó hơi có độc. Người dân nên thận trọng khi sử dụng cây cà gai leo trong việc trị bệnh. Vì, bên cạnh công dụng khi dùng đúng cách, đúng bệnh, thì cây cà gai leo còn chứa nhiều độc tố nguy hiểm, nhất là ở phần quả của cây. Nếu sử dụng không đúng cách có thể gây ảnh hưởng đến tính mạng người sử dụng.

Đăng kí nhận tin