![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
BỆNH MẠN TÍNH
Các từ mãn, mạn, cấp và tính đều là từ Hán Việt.
Mãn (滿) với nghĩa (ngoài ra còn 1 số nghĩa khác) là đầy đủ, tràn ra, sung túc, dồi dào, thừa, hết kỳ hạn. Mãn đường (滿 堂) là đầy nhà, chật nhà. Mãn phục (滿 服) là hết thời kỳ để tang. Bĩ mãn (痞 滿) là chứng đầy ách trong Đông y, với bĩ là cảm thấy trong vùng ngực bụng có sự trắc trở khó chịu, có khi vì nhiệt ủng trệ, có khi vì khí hư khí trệ; mãn là cảm giác đầy. Mãn kinh (滿 經) là hết thời kỳ kinh nguyệt.
Mạn (慢) với nghĩa là chậm chạp, khoan, trì hoãn. Mạn hành (慢 行) là đi thong thả. Mạn kinh đầu (慢 鏡 頭) là phim chiếu chậm. Mạn kinh phong (慢 驚 風) loại bệnh kinh giật ở trẻ em, có những cơn giật nhẹ diễn biến từ từ, lúc có cơn lúc hết cơn, sắc mặt trắng dợt, mệt mỏi, muốn ngủ, thở yếu, bụng lõm; do can thịnh tỳ hư, cần dùng phép ôn vận tỳ dương, phù thổ ức mộc để chữa; do tỳ thận dương hư cần dùng phép ôn bổ tỳ thận, hồi dương cứu nghịch để chữa; nếu ở giai đoạn cuối của bệnh, âm hư nhiệt sinh phong, cần dùng phép tư âm tiềm dương, tư thủy hàm mộc để chữa. Mạn tỳ phong (慢 脾 風) là một loại bệnh nặng ở trẻ em, do bị thổ tả quá nhiều làm chính khí hư suy, hoặc mạn kinh phong lâu ngày gây nên; với triệu chứng mắt nhắm đầu lắc, mặt môi xanh sạm, thần hôn không ngủ, cấm khẩu, nghiến răng, chân tay lạnh và máy giật vô lực, ra mồ hôi trán, lưỡi rụt vào; do tỳ dương suy yếu, tỳ âm suy tổn; cần dùng các phép ôn vận tỳ dương để chữa.
Cấp (急) với nghĩa là gấp, vội vàng. Cấp bách (急 迫) là gấp rút, khẩn cấp. Cấp báo (急 報) là báo tin gấp rút. Cấp cứu (急 救) là gấp rút cứu chữa bệnh, cứu giúp rất gấp.
Tính (性) với nghĩa là tính chất. Bẩm tính (稟 性) là tính chất có sẵn. Dược tính (藥 性) là tính chất, tính năng của một vị thuốc; là tác dụng của vị thuốc trong sự điều chỉnh âm dương trong cơ thể người bệnh; tính năng vị thuốc gồm: tứ khí, ngũ vị, thăng giáng phù trầm, quy kinh và bổ tả. Mạn tính (慢 性) là chậm, chậm chạp, có tính chất chậm chạp. Cấp tính (急 性) là biến hóa rất nhanh, có tính chất mau chóng, qua mau.
Khi đề cập đến các bệnh như viêm khớp dạng thấp, tiểu đường, suy tim, hen phế quản… nhiều người thường nói, viết chúng là những “bệnh mãn tính”! Dùng “bệnh mãn tính” cho các bệnh đó chỉ là do thói quen, chứ thực ra nó hoàn toàn không chính xác. Từ đúng phải là “bệnh mạn tính”, nghĩa là bệnh có tính chất chậm chạp, diễn biến từ từ; đối lập với “bệnh mạn tính” là “bệnh cấp tính” có tính chất gấp gáp, vội vã. Còn “bệnh mãn tính” thì không giải nghĩa được!
2. Bệnh mạn tính là gì?
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh mạn tính là bệnh tiến triển kéo dài hoặc hay tái phát, thời gian bị bệnh thường rất lâu. Bệnh mạn tính không thể ngừa bằng vắc xin, không thể chữa khỏi hoàn toàn và cũng không tự biến mất. Tuy nhiên bệnh có thể được kiểm soát bằng thuốc hoặc các phương pháp điều trị khác. Bệnh mạn tính phần lớn không do vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng hoặc nấm gây ra nên gọi là bệnh mạn tính không lây nhiễm.
Bệnh cấp tính dùng để chỉ những bệnh khởi phát đột ngột, xảy ra trong một khoảng thời gian giới hạn và thường nặng. Từ “cấp tính” cũng bao hàm hai ý nghĩa khác đó là khởi phát đột ngột và mức độ nghiêm trọng.
Thuật ngữ “mạn tính” có thể có hoặc không có tên gọi bệnh lý.
Mặc dù bệnh có xu hướng tăng dần theo tuổi tác, phổ biến ở người cao tuổi. Nhưng không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới thì bệnh mạn tính không lây nhiễm ngày càng gia tăng và trẻ hóa đối tượng mắc bệnh. Các bệnh mạn tính thường gặp: viêm khớp, hen phế quản, đái tháo đường, động kinh, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), tăng huyết áp, suy thận mạn tính, béo phì, viêm gan mạn tính...
3. Tại sao lại mắc bệnh mạn tính?
Do sự tác động lâu dài của các yếu tố (các độc tố, quá tải chức năng, tuổi tác, thói quen sinh hoạt, tâm sinh lý…) đến cơ thể gây suy giảm, thoái hóa, rối loạn các chức năng sống của cơ thể.
Các nhà khoa học Mỹ đã phát hiện ra nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh mạn tính là do cách ăn uống và không lựa chọn đúng loại thức ăn có các tố chất phòng và kháng bệnh cho từng người.
4. Ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh:
Ngoài những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thì người mắc bệnh mạn tính còn bị ảnh hưởng nhiều đến tâm sinh lý và đời sống tinh thần.
Sự rối loạn tâm lý của người bệnh tùy thuộc vào thời gian chịu tác động của áp lực tâm lý và sức chịu đựng tâm lý của cơ thể. Thời gian ngấm sang chấn càng lâu, áp lực tâm lý của người bệnh càng nặng nề từ đó họ có những suy nghĩ và hành vi tiêu cực như mặc kệ cho bệnh lý hoành hành, không cộng tác với thầy thuốc, không thực hiện các chế độ trị liệu và có người bị trầm cảm thậm chí tự tử...
5. Làm gì để sống cùng với bệnh mạn tính?
Nhiều người mắc bệnh mạn tính chưa hiểu đúng về tầm quan trọng của việc điều trị bệnh cũng như chưa kiên trì điều trị. Các liệu trình điều trị bệnh thường khá lâu dài, vì vậy, trước hết người bệnh cần tuân thủ chặt chẽ chỉ định của bác sĩ, không tự ý dùng thuốc, kiên trì điều trị và hiểu rõ về bệnh của mình.
Người bệnh không nản lòng dù bệnh khó chữa, vì thực tế bệnh mạn tính là căn bệnh phải chung sống suốt đời. Nhiều trường hợp dù đã dùng nhiều loại thuốc và điều trị trong thời gian dài nhưng không thấy thuyên giảm nên người bệnh đã buông xuôi không điều trị. Điều này sẽ khiến bệnh tiến triển nặng thêm. Hãy kiên nhẫn để tìm ra cách chữa trị thích hợp nhất và hãy kiên trì tái khám đúng lịch.
Khi mắc bệnh, người bệnh cần tìm hiểu (tự tìm hiểu, hỏi bác sĩ...) về bệnh của mình càng nhiều càng tốt, điều này giúp cho người bệnh có kiến thức, luôn ở tâm thế chủ động khi chung sống lâu dài với bệnh mạn tính.
Để giảm được áp lực về tâm lý, nhất là ở người cao tuổi bị bệnh mạn tính, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có vai trò của người thân trong gia đình, cũng như vấn đề được chăm sóc y tế đúng mức. Những người bị bệnh mạn tính cũng cần chia sẻ cởi mở những vấn đề gặp phải trong sinh hoạt hàng ngày với bạn bè, người thân, họ hàng... sẽ cảm thấy bớt cô đơn và có thêm những bí quyết riêng giúp đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống.
Người bệnh mạn tính cần có một chế độ ăn uống hợp lý với từng người để phù hợp với từng bệnh lý. Đảm bảo giấc ngủ ngon, hạn chế tối đa mọi sự kích thích. Cần tập luyện thể dục, thể thao phù hợp với sức khỏe và từng loại bệnh.