BẮP

BẮP

 

Còn gọi là ngô. Tên khoa học Zea mays L. Thuộc họ Lúa - Poaceae.

Bắp là loại cây lương thực chính của con người từ thuở sơ khai của nhiều dân tộc, nó là nguồn dinh dưỡng có tiềm năng rất lớn, được xem là loại “ngũ cốc vàng”, cha ông ta cũng đã tôn xưng bắp như những hạt ngọc quý giá nên còn đặt tên cho bắp là Thiềm thục ngọc.

1. Công dụng:

Có nhiều cách chế biến bắp, nhưng tốt nhất vẫn là dùng bắp nguyên hạt, chẳng hạn bắp tươi luộc chín, nướng hoặc bắp khô nguyên hạt xay nấu cháo. Bắp tươi có thể chế biến thành nhiều món ăn rất phong phú. Bắp luộc thích hợp cho người bị các bệnh gan thận có phù, sỏi, vàng da.

Hạt bắp chứa nhiều kali. Có tác dụng tăng bài tiết mật, giảm bililubin trong máu, điều chỉnh lượng mỡ trong máu, ngăn ngừa bệnh tim mạch, góp phần ngăn ngừa những triệu chứng bệnh lý của động mạch vành. Kích thích tiêu hóa, tăng cường chuyển hóa cơ bản và hoạt động của ruột già. Việc ngày 2 bữa ăn nóng cháo bột bắp, sẽ giúp giảm mỡ trong máu, hạ huyết áp, tốt cho những người tăng cholesterol trong máu và các bệnh tim mạch khác.

Hạt bắp rất giàu biotin. Loại hạt ngũ cốc thơm ngon này còn kích thích quá trình sản sinh chất sừng keratin, thành phần chính của sợi tóc. Nhờ thế, mái tóc sẽ dày khỏe và đẹp hơn bằng việc ăn thường xuyên tuần 3 lần, mỗi lần một trái bắp hoặc tán bắp ra nấu uống.

1g râu bắp có 1.600 đơn vị sinh lý vitamin K, tương đương 0,064mg vitamin K tổng hợp; giúp thúc đẩy quá trình đông máu, điều này rất quan trọng đối với những người mắc bệnh máu khó đông.

Hạt bắp có tác dụng điều trung khai vị, thẩm thấp lợi niệu. Chủ yếu dùng cho viêm loét dạ dày, tiêu hóa kém, tăng huyết áp, khó đi tiểu, sỏi bàng quang.

Râu bắp có tác dụng làm tăng bài tiết mật và lượng nước tiểu trong các chứng bệnh viêm túi mật, tắc túi mật; giảm phù thũng trong những bệnh về tim, thận.

2. Ứng dụng:

Đái đường: hạt bắp nhúng nước ủ cho mọc mầm, dùng mầm sấy khô, tán bột uống mỗi ngày 20 - 30g với nước sắc củ khoai lang làm thang. Món cháo nấu từ bắp non bào nhỏ với gạo và củ khoai mài có tác dụng tốt đối với người bệnh tiểu đường bị suy dinh dưỡng.

Hồi hộp, mất ngủ: râu bắp cho vào túi vải buộc miệng, hầm với tim heo, ăn cái và uống nước rất tốt.

Trẻ biếng ăn, tiêu hóa kém, đầy bụng: hạt bắp non 100g, cà rốt 2 củ vừa; nấu bắp sôi trước 1 giờ rồi cho cà rốt vào ninh nhừ, ngày 2 lần.

Điều trung khai vị, thẩm thấp lợi tiểu: bột bắp với hạt bo bo, nấu cháo ăn thường xuyên.

Viêm dạ dày mạn: hạt bắp 60g, hạt đậu ván 60g, đu đủ 15g; nấu với nước mà ăn.

Tiêu hoá kém hay đi lỏng: hạt bắp 500g, vỏ trái lựu 25g; cùng sao vàng nghiền thành bột nhỏ, ngày dùng 3 lần, mỗi lần 9 - 12g, trẻ con giảm liều.

Váng đầu: hạt bắp 30g, trứng ngỗng 1 cái; sáng sớm tráng ăn lúc đói.

Tăng huyết áp: bắp 30 hạt đập nát, râu bắp 10g, xác ve sầu 3 cái; sắc uống, một liệu trình là một tháng. Râu bắp 30 - 50g, đường trắng vừa đủ; sắc uống ngày 1 - 2 lần; cách này còn dùng cho người bị sỏi đường tiết niệu.

Viêm tuyến sữa: bột hạt bắp 50g sao vàng, nước nấu sôi để nguội quấy thành hồ đắp vào chỗ đau.

Đại tiện ra máu: hạt bắp rang cháy, nghiền thành bột, hoà với ít rượu mà uống, mỗi lần 25g.

Viêm thận, viêm bàng quang: râu bắp 100g; rau má, mã đề, ý dĩ mỗi vị 50g; sài đất 40g; sắc uống, ngày 1 thang, uống liền 2 - 3 tuần lễ.

3. Lưu ý:

Không dùng râu bắp cho người mắc bệnh máu đông hoặc đang dùng thuốc chống đông máu, phụ nữ đang hành kinh.

Không dùng nước râu bắp thay thế nước lọc - đặc biệt đối với trẻ em - vì có thể làm cho cơ thể phải đi tiểu nhiều dễ gây ra hiện tượng mất nước.

Râu bắp có tác dụng lợi tiểu, chỉ nên dùng vào buổi sáng hoặc trưa, không nên dùng vào buổi tối có thể ảnh hưởng tới giấc ngủ vì ban đêm phải đi tiểu nhiều.

Tất cả cảm xúc:

77

Đăng kí nhận tin