![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
(PHẦN 1)
1. Khái niệm:
Bào có nghĩa là dùng sức nóng để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện cho việc chế biến và điều trị.
Chế có nghĩa là dùng công phu thay đổi hình dạng, tính chất của dược liệu.
Nói chung, bào chế là công việc biến đổi tính thiên nhiên (thiên tính) của dược liệu thành những vị thành thuộc để phòng và trị bệnh. Trong tiếng Việt thường dùng danh từ thuốc chín đối nghĩa với danh từ thuốc sống, chữ chín có đủ nghĩa của 2 chữ Bào chế.
Tài liệu xưa để lại lâu đời nhất là quyển Bào chế luận của Lôi Hiệu (Trung Quốc) vào khoảng năm 420 - 479 và sau đổi là Lôi công bào chế. Quyển này vẫn có giá trị cho đến ngày nay.
2. Mục đích:
- Bỏ các tạp chất không cần thiết trong dược liệu, mốc, sâu mọt.
- Để dễ thái miếng, dễ bảo quản, dễ tán ra bột hoặc dễ nấu cao để chế thành thuốc.
- Bỏ bớt vài bộ phận không cần thiết của dược liệu và làm cho vị đó tinh khiết thêm lên như mạch môn bỏ lõi, ngưu tất bỏ đầu...
- Giảm bớt độc tính của dược liệu như mã tiền, bán hạ...
- Tăng cường hoặc giảm bớt hoạt tính của dược vật sao cho phù hợp với nhu cầu của điều trị.
- Kéo dài được tuổi thọ của những loại thuốc thường dễ bị hư biến.
3. Yêu cầu:
Trần Gia Mô đời Minh (Trung Quốc) có nói: "Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị".
Câu này là một cách ngôn mấu chốt cho tất cả mọi người làm công tác bào chế Đông dược. Nhưng bào chế thế nào gọi là vừa chừng? Đạt được danh từ này thật là khó: cắt, thái nên dày hay mỏng, sao nên già hay non...
Kỹ thuật bào chế Đông dược trông qua thật là đơn sơ, nhưng nó đòi hỏi ở người bào chế nhiều kinh nghiệm, đã làm lâu năm trong nghề. Có 2 yêu cầu chính sau đây:
Bảo đảm chất thuốc (phẩm chất), kỹ thuật đúng.
Người bào chế giỏi, ngoài sự hiểu biết về dược tính, còn phải tuỳ trạng thái phẩm chất của vị thuốc, tuỳ từng yêu cầu của bài thuốc mà định việc bào chế cho được vừa chừng.
4. Sấy:
Sấy lửa nhỏ cho những loại hoa.
Ngày nay người ta thường dùng tủ sấy để sấy thuốc nhưng thường hay bỏ sót 2 điều kiện, đó là độ gió thông khí và độ ẩm của dược liệu. Nếu như độ ẩm nhiều mà sấy với nhiệt độ cao thì thuốc sẽ bị sạm đỏ, không còn vàng tươi như sấy trên lò than, cho nên cần chú ý độ thông gió khi sấy.
5. Sao:
Sao là cách cho dược liệu trực tiếp hay gián tiếp với lửa làm cho thuốc khô ráo, sém, vàng hay cháy đen, mục đích chủ yếu của sao là làm thay đổi công năng, tính dược của vị thuốc theo ý đồ của người điều trị và làm cho dược liệu khô, dễ bảo quản sau khi đã qua các phần rửa, ngâm hay tẩm, hoặc có khi để ổn định dược liệu.
Dụng cụ để sao thường là chảo gang hoặc nồi rang bằng đất và một đôi đũa to bằng tre hay sạn dùng để đảo thuốc khi sao. Có thể dùng máy sao để sao dược liệu như các máy sao chè ở các nhà máy chè hiện nay.
Trước khi sao phải phân loại dược liệu to, nhỏ để riêng sao cho được vàng đều tránh thứ to thì chưa được mà thứ nhỏ thì đã bị cháy.
Có nhiều cách sao, mỗi cách có một chỉ tiêu quan sát đơn giản nhưng chính xác.
5.1. Sao vàng:
Bên ngoài có màu vàng nhưng trong ruột vẫn màu cũ, cốt có mùi thơm, sao để cho vị thuốc bớt tính lạnh. Khi sao lửa phải nhỏ, thời gian sao lâu. Không nên để lên khói nhiều, không để nổ thành từng tiếng bên thành chảo. Sao vàng áp dụng cho các dược liệu như củ mài, hoa hòe, hạt cải bẹ, củ sả…
5.2. Sao vàng hạ thổ:
Quét sạch đất hay đào hố sâu dưới đất 10 - 30cm. Trải miếng vải hay giấy mỏng, đổ úp dược liệu đã sao vàng xuống, đậy lại để độ 10 - 15 phút cho nguội. Lấy tay sờ miếng vải thấy ấm và thấy có màu vàng sậm lại. Áp dụng cho các dược liệu như rễ cỏ xước, lá tre, sài hồ, muồng trâu…
Là để lấy lại thăng bằng âm dương cho vị thuốc, vì vị thuốc sao lửa nóng tăng phần dương, đưa xuống đất để nhập phần âm cho tính dược trở lại thăng bằng. Thật ra khi thay đổi nhiệt độ đột ngột như thế các hoạt chất được giải phóng dễ dàng khi sắc thuốc.
5.3. Sao vàng xém cạnh:
Mặt ngoài xém cạnh, trong ruột màu vẫn như cũ, cách sao này áp dụng cho các vị thuốc chua chát hoặc tanh lợm quá như hạt cau, chỉ thực, kim anh, vỏ quýt…
5.4. Sao đen:
Dùng lửa to, chảo thật nóng, cho dược liệu vào đảo đều cho tới khi bên ngoài cháy đen, bẻ ra trong còn màu vàng là được. Sao đen nhằm mục đích làm tăng thêm tác dụng tiêu thực hay cầm máu của vị thuốc. Thường áp dụng cho các dược liệu như củ gấu, kinh giới, táo nhân…
5.5. Sao tồn tính:
Không có nghĩa là sao cháy thành than, mà bao giờ cũng cho cháy đến khoảng 70% là được. Sao đen đến mức độ có cháy hơn nhưng chưa thành than. Sao tồn tính dùng lửa to, chảo thật nóng, cho dược liệu vào đảo đều đến khi khói lên nhiều, mang ra khỏi lửa úp vung lại để nguội. Mục đích của sao tồn tính là để tăng tác dụng cầm máu của vị thuốc. Sao tồn tính áp dụng cho các dược liệu như lá trắc bá, gương sen, gừng cháy.
5.6. Sao cát:
Thường dùng thứ cát nhỏ, đãi sạch, rang cho nóng và bay hết hơi nước rồi mới cho dược liệu vào đảo thật đều tay. Sao cát nhằm cho dược liệu vàng, phồng lên, không cháy. Dược liệu thường sao cát như mã tiền…
6. Lùi:
Cho thuốc vào tro nóng không bén tới lửa đến khi chín lấy ra. Khi lùi, dược liệu được bao bọc bằng giấy bản ướt hoặc một lượt cám ướt đến khi thấy vật bao dược liệu khô là được. Nhằm làm tăng thêm tính ấm của thuốc. Dược liệu thường lùi như cam thảo, mộc hương …
BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC - MỘT SỐ CÁCH THÔNG THƯỜNG
(PHẦN 2 VÀ HẾT)
7. Nung:
Cho dược liệu trực tiếp vào lửa đốt với nhiệt độ từ 200 - 6000C. Với mục đích làm cho dược liệu bở ra, tơi, xốp, dễ tán mịn. Thường áp dụng cho các dược liệu là khoáng vật hay động vật rắn như gạc hươu nai, vỏ sò ốc...
8. Hãm:
Giống như pha trà. Hãm là rót nước đang sôi vào dược liệu để ngâm 15 - 60 phút trong 1 chén có nắp đậy. Ở nhiệt độ này men và đa số vi khuẩn bị diệt, dược liệu không biến chất, dược chất được hòa tan dần trong nước, hương vị dược liệu còn được giữ nguyên. Thường áp dụng cho các dược liệu mềm như hoa, lá nhỏ, sâm… các loại mà ngày nay gọi là “trà thuốc”.
9. Hầm:
Hầm là nấu dược liệu trong một bình kín ít bốc hơi để cho nhiệt độ không cao lắm nhưng vì nhốt hơi lại làm cho dược liệu dễ bị tan rã, chiết lấy các chất mà nấu thường không thể làm mềm được. Loại thuốc này thuộc loại thuốc thức ăn cho những người bệnh yếu sức, sau bị bệnh cần bồi dưỡng dài ngày.
10. Chưng cách thủy:
Là phương pháp nấu dược liệu trong 1 cái chõ cách thủy để làm thay đổi chất thuốc, nhằm làm cho chất bổ dễ hấp thu, giữ sao cho nước trong thùng có dược liệu không quá 1100C và không cạn khi chưng.
Dược liệu xếp vào thùng, to để dưới, nhỏ để trên, không nên lèn chặt quá.
Thùng này được đặt vào trong một thùng khác to hơn và đậy nắp lại nấu trong 24 giờ. Khi nào cạn thì chế nước sôi thêm vào. Hôm sau lấy dược liệu đem phơi hoặc sấy khô, rồi lại tiếp tục làm như trước, làm ít nhất 3 lần hoặc 9 lần gọi là “cửu chưng cửu sái”.
11. Đồ:
Cũng dùng hơi nước nóng là chủ yếu để làm cho mềm dược liệu để dễ thái, bào. Dụng cụ là một cái nồi có một tấm vỉ bằng tre hay nhôm có lỗ bên trên để cho khi nấu thì hơi nước bốc lên thấm các dược liệu nằm phía trên làm cho các dược liệu mềm dần. Thời gian đồ 30 - 60 phút. Đồ xong phải thái bào ngay.
Áp dụng cho dược liệu không dùng được cho phương pháp ngâm như phục linh, củ mài…
12. Ủ:
Là dùng nước thường với số lượng ít đem thấm ướt dược liệu, dùng vải ướt hoặc lá chuối đậy kín lại từ vài giờ đến vài ngày để dễ uốn nắn theo hình thể nhất định.
Mục đích của ủ là để cho các men trong dược liệu tự phân hủy những chất làm cho dược liệu trở thành ngọt hơn, cay hơn hoặc dịu hơn.
13. Tẩm:
Dùng rượu, giấm, muối, gừng nhào vào dược liệu cho đủ ướt để cải tiến thay đổi tính chất của dược liệu, cách này rất thường dùng.
Trước khi tẩm, dược liệu thường thái miếng mỏng phơi sấy qua cho khô.
Thời gian tẩm, tuỳ từng dược liệu vài giờ cho đến 8 - 10 giờ.
Sau khi tẩm rồi đem sao lại cho khô, sao cho vàng là được.
13.1. Tẩm rượu sao:
Rượu thường dùng là rượu trắng 35 - 400. Tẩm xong để 30 phút đến 1 giờ rồi đem sao. Lửa nên để nhỏ, sao lâu để rượu đủ sức ngấm vào thuốc, hơi rượu chớm bốc có mùi thơm bay ra là được. Số lượng rượu dùng tuỳ theo dược liệu 50 - 200ml cho 1kg thuốc.
Tẩm rượu sao để thăng đề (dùng rượu để dẫn thuốc lên các bộ phận phía trên của cơ thể). Tẩm rượu sao để giảm tính lạnh, thêm sức ấm cho dược liệu như hoàng bá, hoàng cầm, hoàng liên, bạch thược...
Tẩm rượu để một số chất của vị thuốc dễ tan vào rượu, rồi sau tan vào thuốc sắc.
13.2. Tẩm gừng sao:
Gừng tươi sạch, giã dập, thêm ít nước, vắt lấy nước để tẩm dược liệu, ngâm chừng một giờ rồi đem sao, lửa nhỏ, sao lâu cho đến khi có màu vàng thấy mùi thuốc thơm là được. Số lượng nước tẩm 5 - 15% tuỳ theo dược liệu.
Thường 1 kg dược liệu phải dùng đến 50 - 100g gừng. Các loại sâm cũng thường tẩm nước gừng sao thơm để tăng sức bồi dưỡng. Lửa nhỏ, nhiệt độ 50 - 600, thuốc hơi vàng là được, không để già quá.
Tẩm gừng sao để mượn chất ấm của gừng làm giảm tính lạnh của dược liệu. Gừng làm ấm tỳ vị và giúp thêm tiêu hoá.
13.3. Tẩm muối sao:
Muối ăn một phần cho 5 phần nước nấu sôi, lọc lấy nước tẩm đều với thuốc để 1 - 2 giờ rồi đem sao lửa nhỏ, sao chậm, đến khi mặt dược liệu vàng già là được. Số lượng nước tẩm thường là 5% dược liệu.
Tẩm muối sao để dẫn thuốc vào thận.
13.4. Tẩm giấm sao:
Giấm có nhiều loại, thứ tốt nhất là loại giấm thanh nuôi bằng chuối, bún, mùi chua, thơm và hơi ngọt.
Dùng giấm ăn thường cũng được nhưng đừng chua quá (có thể pha thêm nước ấm cho loãng ra), nhạt quá thì giấm kém tác dụng. Nói chung giấm có độ axit axetic 5% là vừa.
Nếu số lượng dược liệu ít, tẩm giấm, xâm xấp, để 1 - 2 giờ, rồi sao lên cho ráo hơi nước, vàng cạnh là vừa.
Nếu số lượng nhiều hơn, bỏ dược liệu vào một cái chậu dội giấm lên đảo đều. Lấy bao tải sạch đậy lại để qua một đêm, hôm sau lấy ra từng ít, sao vàng cạnh là được.
Số lượng giấm dùng là 5% dược liệu.
Các dược liệu thường tẩm giấm như hương phụ, miết giáp.
Sao giấm để chỉ thống, làm tăng tác dụng chỉ thống của vị thuốc, giảm tính kích thích của một số vị thuốc. Để dẫn thuốc vào can.
13.6. Tẩm nước gạo sao:
Gạo mới vo, nước gạo nên đặc không quá loãng.
Số lượng nước gạo thường dùng là 5 - 10% dược liệu.
Tẩm xong để 1 đêm cho thấm, sấy khô rồi sao vàng cạnh là được.
Tẩm nước gạo vo để làm bớt tính ráo của dược liệu, thường là dược liệu có tinh dầu như thương truật...
13.6. Tẩm mật sao:
Mật thường dùng là mật mía, mật ong thì tốt hơn. Mật không nên đặc quá, đặc quá mật chỉ bám ở ngoài; gặp nóng, mật sẽ quánh lại ở phía ngoài mà không thấm vào dược liệu, do đó nên pha thêm 1 nửa mật và 1 nửa nước sôi vào mật đặc, đun nhỏ lửa khuấy đều. Tẩm xong để 4 - 6 giờ cho thấm rồi đem sao, sao vàng cạnh là được, sao chậm.
Dược liệu thường tẩm mật như hoàng kỳ, cam thảo, tang bạch bì... Số lượng mật dùng tẩm tuỳ theo dược liệu, từ 5 - 10%.
Mật là chất ngọt giúp thêm nhiệt lượng cho cơ thể có tính cách bồi dưỡng, chất ngọt làm giảm chất đắng, chất chát của một số vị thuốc, thêm sức ấm bổ, để dẫn thuốc vào tỳ.