![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
BẤM HUYỆT (PHẦN IV)
9. Thủ pháp (tiếp theo):
9.3. Day, ấn (nhu án pháp):
Là một loại thủ pháp mà người điều trị dùng đầu ngón tay (ngón giữa, trỏ hoặc cái) hoặc là các dụng cụ điểm huyệt, thực hiện động tác vừa ấn vừa day tròn lên huyệt vị đã chọn. Khi ứng dụng thì đầu ngón tay nhất định không thể rời khỏi da của người bệnh, phải làm sao cho sau khi ấn xuống một huyệt vị, khiến cho da và các biểu bì dưới da vận động day tròn cùng với ngón tay trong đó huyệt vị là trung tâm của đường day tròn ấy. Khi ứng dụng dụng cụ điểm huyệt cũng giống như vậy, khi ứng dụng không được làm cho ngón tay hoặc dụng cụ điểm huyệt trượt đi chà xát vào làn da. Khi sử dụng cần phải làm sao cho trên huyệt vị được day ấn sinh ra cảm giác tê rần, mới có hiệu quả điều trị tốt, nếu không có sẽ không đạt được hiệu quả trị liệu.
Theo liệu pháp này, thời gian day ấn mỗi huyệt 2 - 3 phút, thông thường mỗi phút day ấn sáu mươi đến một trăm vòng. Cụ thể khi ứng dụng, thì thời gian day ấn đối với huyệt chính có thể dài hơn một chút, hoặc ứng dụng theo thứ tự huyệt chính trước, huyệt phụ sau, rồi lại đến huyệt chính. Mỗi lần trị liệu, nên day ấn huyệt chính hai lần, để tăng cường thêm tác dụng huyệt chính.
Khi ứng dụng liệu pháp này, phải căn cứ vào sự khác nhau về thể chất và tình trạng bệnh tình của người bệnh mà thực hiện lượng kich thích khác nhau. Người bệnh có thể chất tốt, bệnh chứng nặng, thì cảm giác tê rần có thể mạnh một chút; người có thể chất yếu, bệnh chứng nhẹ , thì khi ứng dụng liệu pháp day ấn, có thể khiến cho cảm giác tê rần nhẹ một chút, để người bệnh cảm thấy thư thái dễ chịu là được.
Ưu điểm của liệu pháp này là lượng kích thích tương đối nhẹ nhàng, phần được day ấn có cảm giác tê rần là chính, người bệnh đặc biệt là phụ nữ, trẻ em dễ dàng tiếp nhận, đồng thời hiệu quả cũng tốt.
Khuyết điểm của liệu pháp này nằm ở chỗ do lượng kích thích tương đối nhẹ, thường phải ứng dụng kết hợp với điểm môn pháp.
Liệu pháp này thường thích ứng cho các chứng như co giật, tê đơ, mất ngủ, chóng mặt.
9.4. Tuân thiết pháp:
Tuân thiết pháp là một loại thủ pháp dùng ngón tay - thông thường là ngón tay cái hoặc ngón giữa - hoặc dùng dụng cụ, di chuyển theo đường thẳng dọc, dọc trên những huyệt vị khác nhau, luân phiên tiếp điểm. Như khi hai vai đau, có thể chọn huyệt trên kinh thủ dương minh đại trường, bắt đầu từ phần trước của bả vai, tách ra điểm vào các huyệt thuộc bả vai như huyệt khúc trì, thủ tam lý, tuần hoàn lặp đi lặp lại.
Mỗi huyệt điểm trong ít phút; từ sáu phút, dùng lực đồng đều, sao cho có cảm giác hơi buốt là được; rồi đổi sang huyệt khác, tổng cộng tuần hoàn mười đến hai mươi lần, 3 - 5 phút là được.
Liệu pháp này có sự phân biệt bổ và tả, thuận theo chiều chạy của kinh mạch thì gọi là bổ, còn ngược lại là tả.
Ưu điểm của liệu pháp này là chọn huyệt tương đối nhiều, nhiều huyệt cùng dùng, tạo nên hiệu quả đồng thời. Thích hợp cho việc trị liệu các chứng đau vùng tay và lưng vai kết quả cũng tương đối tốt.
Khuyết điểm của liệu pháp này nằm ở chỗ người mới học không dễ nắm bắt, đặc biệt là kinh huyệt đôi khi có thể điểm ấn lầm lẫn.
Liệu pháp này thích ứng cho các chứng đau, tê, các chi cử động khó khăn, như trúng gió, liệt, di chứng sau liệt, bệnh đốt sống cổ.
9.5. Khấu đả pháp:
Khấu đả pháp là một thủ pháp ứng dụng đầu nhọn ngón tay giữa của người thầy thuốc hoặc là dùng dụng cụ điểm huyệt, gõ mổ vào huyệt vị. Khi sử dụng, khớp cổ tay phải dùng lực, động tác phải nhẹ khéo êm ái, dùng lực đều và vừa độ, tiết tấu hài hòa. Gõ mổ giống như thủ pháp mai hoa châm trong châm kim vậy, yêu cầu trước thì nhẹ sau thì mạnh dần, dần dần tăng nhanh, khiến cho chỗ huyệt sản sinh ra cảm giác buốt, tê, căng.
Thời gian thực hiện thủ thuật cho mỗi huyệt 3 - 5 phút là vừa, tần suất gõ mổ 60 - 100 lần/phút.
Khi ứng dụng liệu pháp này phải dùng lực gõ mổ đều tay, lực gõ mổ không được quá mạnh, khi gõ mổ sao cho vùng huyệt vị được gõ mổ hiện lên hơi hồng, phát nóng là được.
Ưu điểm của liệu pháp này nằm ở phạm vi thích ứng rộng, có thể thực hiện đối với hầu hết các huyệt vị, đồng thời người bệnh cũng dễ dàng chịu được.
Khuyết điểm của liệu pháp này nằm ở chỗ lực gõ mổ khó kiểm soát được, không thể phân biệt tách bạch giữa nặng và nhẹ.
Liệu pháp này thích ứng dùng cho các chứng như bên ngoài phát sốt, tứ chi lạnh ngược, các khớp co duỗi khó khăn và cảm giác căng đau, trẻ con đái dầm.
9.6. Trảo thiết pháp:
Trảo thiết pháp thuộc về đơn chỉ pháp, là một loại thủ pháp dùng phần móng ngón tay cái hoặc ngón trỏ chiết ấn vào huyệt vị, sản sinh ra một sự kích thích nhất định, thông qua sự tác dụng lên kinh mạch, mà đạt được mục đích trị liệu bệnh tật. Khi thao tác thủ pháp này, phải chú ý khống chế được lực của ngón tay, có thể kết hợp nặng nhẹ, khi nặng khi nhẹ, phải hết sức tránh tình trạng lực chiết của móng tay quá mạnh, gây nên cảm giác đau đớn khó chịu nơi huyệt vị được điểm, khiến cho người bệnh không thể chịu đựng được. Liệu pháp này thường dùng cho các huyệt vị nằm ở những bộ phận có tiết diện hẹp, không thích hợp cho việc thi triển năm loại thủ pháp ở trước, như tại các huyệt thập nhị tỉnh, thập tuyên, nghinh hương.
Khi ứng dụng liệu pháp này chiết ấn huyệt vị, có thể luân phiên nặng nhẹ với nhau, khiến cho nơi huyệt vị của người bệnh cảm thấy lượng kích thích có sự luân phiên nặng nhẹ với nhau. Mỗi huyệt thực hiện 3 - 5 phút. Thông thường mỗi huyệt luân phiên nặng nhẹ 30 - 60 lần, để khiến cho bên dưới huyệt vị được điểm của người bệnh sinh ra cảm giác hơi buốt, rần, căng, tê. Như khi ứng dụng trong cấp cứu, giải nhiệt, có thể dùng thủ pháp này với lực tay nặng, để đạt được hiệu quả làm thức tỉnh não bộ hoặc thanh nhiệt cho người bệnh.
Ưu điểm của liệu pháp này nằm ở chỗ khi ứng dụng, vì thường chọn các huyệt như thập nhị tỉnh, thập tuyên; lượng kích thích và cảm giác của người bệnh đều tương đối nặng, có hiệu nghiệm trong việc trị liệu các chứng hôn mê, nóng sốt cấp tính.
Khuyết điểm của liệu pháp này nằm ở chỗ số huyệt có thể ứng dụng được tương đối hạn chế, trẻ con và phụ nữ khó có thể tiếp nhận được sự kích thích mạnh của liệu pháp này, cho nên đối với trẻ con và phụ nữ thì khi ứng dụng liệu pháp này, phải chú ý đến việc khống chế lực của ngón tay.
Thông thường dùng nhiều cho cấp cứu như đánh thức thần kinh, khai thông và thanh giải nhiệt tà, chủ trị hôn mê, ngạt mũi, cổ họng sưng đau.