BẤM HUYỆT (PHẦN III)

BẤM HUYỆT (PHẦN III)

 

7. Chỉ định:

Dùng bấm huyệt có thể chữa được nhiều chứng bệnh, phạm vi chỉ định tương đối rộng rãi, nhất là các chứng bệnh do rối loạn cơ năng.

Đối với các bệnh có nguyên nhân do tổn thương thực thể hoặc tình trạng bệnh lý nặng, thậm chí có nguy cơ đe dọa tính mạng người bệnh như ngất, bất tỉnh, bấm huyệt cũng có thể góp phần làm giảm nhẹ hoặc chấm dứt được nhiều triệu chứng, phối hợp đắc lực với các biện pháp điều trị khác.

Các bệnh thuộc nội, ngoại, nhi, phụ, tai mũi họng, răng, mắt… đều có thể chỉ định sử dụng rộng rãi phương pháp bấm huyệt để điều trị hoặc phối hợp với các phương pháp khác. Như các bệnh cảm mạo, mệt mỏi, suy nhược, tiêu hoá kém, đau nhức cơ khớp (cổ, gáy, vai, lưng…), đau bụng, đau đầu, đau răng, đái dầm, di chứng bại liệt, di chứng trúng phong, liệt dây thần kinh ngoại vi, đau dây thần kinh ngoại vi, mất ngủ, lác mắt, cận thị, ngạt mũi... Có thể dùng trong cấp cứu ngất, bất tỉnh.

Phạm vi chỉ định còn phụ thuộc vào khả năng, trình độ, kinh nghiệm của thầy thuốc và sự tín nhiệm của người bệnh.

8. Chống chỉ định:

Những người bệnh cần phải kịp thời tiến hành xử lý cấp cứu ngoại khoa như viêm ruột thừa, thủng dạ dày, viêm phúc mạc, tắc ruột, băng huyết… Người mắc chứng đau bụng cấp kiêng day ấn các huyệt a thị của vùng bụng.

Những người bệnh mắc bệnh truyền nhiễm cấp tính nặng như thương hàn, bạch hầu, dịch hạch, đậu mùa… cần đưa đến các cơ sở y tế cách ly và điều trị chuyên khoa.

Người bệnh ở trạng thái nhiễm trùng huyết, bệnh lao giai đoạn hoạt động, thấp tim giai đoạn hoạt động, tâm thần, ung thư.

Đang có bệnh ngoài da nặng, nhất là da và tổ chức phần mềm nơi định bấm huyệt có mủ, tiết dịch nhiều. Trẻ em kiêng đè ấn vào các huyệt thuộc vùng đầu.

Phụ nữ mang thai; những người say rượu, suy kiệt, quá đói, quá no.

9. Thủ pháp:

Ngoài ứng dụng ngón tay điểm huyệt trị liệu tức thời (thường gọi là “chỉ châm”) ra, thì trong quá trình hình thành và phát triển còn có rất nhiều dụng cụ có thể ứng dụng được, phần lớn chúng đều chịu ảnh hưởng của đề châm trong cửu châm, có kim gỗ, kim trúc, đề châm cho đến đề châm từ, điện nhiệt châm với các ứng dụng hiện đại. Bất kể ứng dụng chỉ châm hay là các dụng cụ điểm huyệt trị liệu, các thầy thuốc đều đã tổng kết ra các loại thủ pháp ứng dụng. Họ căn cứ vào các bộ phận khác nhau, các huyệt vị khác nhau trên cơ thể người cũng như sự khác nhau của các dụng cụ, đã tuyển chọn được các thủ pháp khác nhau, khiến cho liệu pháp điểm huyệt phát huy được hiệu quả tốt nhất.

9.1. Bấm (niết cáp pháp):

Bấm huyệt là một loại thủ pháp sau khi chọn huyệt xong, dùng hai ngón tay - có thể dùng ngón tay cái và trỏ hoặc ngón tay cái và giữa - đặt vào bên trên và bên dưới huyệt vị hoặc bên trái và bên phải huyệt vị, dùng lực ngược chiều nhau, bấm đối xứng vào huyệt vị.

Khi bấm đặt đầu ngón cái vào đúng vị trí huyệt chính định bấm, ngón trỏ hoặc ngón giữa có thể đặt vào một huyệt nằm gần huyệt chính hoặc đối diện vơi huyệt chính, có tác dụng phối hợp. Thí dụ: khi bấm huyệt nội quan bằng đầu ngón cái, thì ngón trỏ có thể đặt ở huyệt ngoại quan; hoặc khi bấm huyệt tam âm giao bằng ngón cái, thì ngón trỏ đặt ở huyệt huyền chung. Có khi đồng thời bấm một lúc ba huyệt bằng cả ba ngón.

Đầu ngón cái bao giờ cũng để vuông góc với mặt da vùng huyệt định bấm. Tùy theo vị trí huyệt bấm mà đốt 1 và 2 ngón cái có thể trong tư thế vuông góc với nhau hoặc cùng nằm trên một đường thẳng.

Khi bấm, tập trung lực của tay vào đầu ngón tay cái, còn lực ở đầu ngón trỏ hay ngón giữa vừa phải để đạt mục đích phối hợp hoặc tạo điểm tỳ cho ngón cái. Chú ý không để móng tay tác dụng trực tiếp lên huyệt, dễ gây quá đau hoặc tổn thương da.

Lực bấm mạnh hay nhẹ, tăng hay giảm, nhanh hay chậm tùy thuộc vào thể lực, sức chịu đựng của người bệnh và yêu cầu của điều trị đối với từng chứng bệnh, sao cho dưới huyệt sinh ra cảm giác hơi buốt, tê căng là được. Thí dụ: nếu người bệnh trẻ, khỏe, mắc bệnh đột ngột, diễn tiến cấp tính thì dùng lực bấm mạnh, tăng giảm lực nhanh, lực bấm dù mạnh nhưng ở mức người bệnh chịu được, không gây đau đớn, tổn thương; trường hợp người bệnh thể lực yếu hoặc nhiều tuổi, bệnh mắc đã lâu, điều trị nhiều lần chưa khỏi, bệnh diễn biến từng đợt hoặc âm ỉ, liên miên thì dùng lực bấm vừa phải, tăng giảm lực từ từ, thời gian bấm có khi phải lâu hơn.

Khi cần tăng cường lực bấm, nếu tay thầy thuốc yếu hoặc mỏi, có thể dùng gốc gan tay ngón cái của tay bên kia ấn thêm vào lưng ngón cái đang bấm vào huyệt, thay đổi lực bấm ở đầu ngón cái (nhấn lên nhấn xuống), xoay ngón cái theo chiều kim đồng hồ. Chú ý ngón cái không được rời da vùng huyệt đang bấm.

Khi ứng dụng, bấm mỗi huyệt trong vòng khoảng ba đến năm phút là vừa đủ, không được bấm huyệt quá lâu, để tránh xảy ra hiện tượng ứ huyết. Đối với cơ khớp, gân xương của trẻ em cần phải cẩn thận, không được dùng lực quá mạnh, đề phòng trường hợp dùng lực không phù hợp mà gây nên hiện tượng gãy xương.

Ưu điểm của bấm huyệt là khi ứng dụng, lượng kích thích tương đối mạnh, đối với một số chứng bệnh khó, khẩn cấp thì thường hiệu quả tương đối tốt.

Khuyết điểm của liệu pháp này là số huyệt vị có thể ứng dụng được tương đối ít, nhiều người rất khó chịu đựng đối với lượng kích thích mạnh, liệu pháp này có những tác dụng đặc biệt của liệu pháp chỉ châm, mà nếu dùng dụng cụ thì khó có thể có được.

Thông thường thì liệu pháp này thích ứng cho các trường hợp cấp cứu, như hôn mê, co giật, ngoài ra cũng có thể ứng dụng cho việc trị liệu sốt, viêm mũi.

9.2. Điểm (điểm môn pháp):

Là dùng ngón tay hoặc dụng cụ điểm lên các huyệt vị khác nhau của cơ thể, đồng thời căn cứ vào các bộ phận khác nhau cũng như tình trạng thể chất khác nhau của cơ thể người bệnh, thi triển kỹ thuật điểm với cường độ nặng nhẹ khác nhau. Thông thường lượng kích thích nặng thích hợp cho những người mắc thực chứng, lượng kích thích nhẹ thích hợp cho những người mắc hư chứng.

Thông qua điểm huyệt khiến cho người bệnh có cảm giác giống như châm cứu, tức là sau khi điểm huyệt sẽ sinh ra các cảm giác như buốt, tê, căng, buồn. Thông qua tác dụng điều hòa kinh mạch, để đạt được mục đích phòng và trị bệnh.

Phải chú ý là lực điểm từ nhẹ đến mạnh, khiến cho người bệnh dần dần thích ứng, nhất thiết không được dùng lực quá mạnh, khiến cho người bệnh không thể chịu đựng được. Khi ứng dụng điểm, căn cứ vào sự khác nhau của bệnh tình, có thể chọn dùng những dụng cụ khác nhau, vừa có thể điểm từng huyệt trị bệnh, vừa có thể điểm nhiều huyệt cùng lúc, để đạt được mục đích trị liệu bệnh tật.

Dùng ngón tay điểm huyệt, có thể chia ra đơn chỉ pháp tức cách điểm bằng một ngón tay và song chỉ pháp tức cách điểm bằng hai ngón tay. Nếu ứng dụng dụng cụ điểm huyệt, thì có thể chia làm điểm từng huyệt riêng lẻ tức đơn huyệt và điểm hai huyệt cùng lúc tức song huyệt. Đơn chỉ pháp là dùng ngón tay cái hoặc ngón tay giữa của thầy thuốc với một lực nhất định điểm lên một huyệt nào đó, là một loại thủ pháp điểm huyệt có tác dụng phòng bệnh và trị bệnh được thực hiện bên ngoài cơ thể. Song chỉ pháp là một loại thủ pháp điểm huyệt dùng đồng thời hai ngón tay cái hoặc hai ngón giữa hai tay của thầy thuốc điểm vào hai huyệt gần nhau, như các huyệt nghinh hương, thái dương, phong trì, thiên khu, để đạt được mục đích tạo hiệu quả trị liệu cùng lúc. Còn đối với việc ứng dụng dụng cụ để điểm huyệt, thì cũng giống cách thức trên, chỉ có điều ứng dụng dụng cụ điểm lên một hoặc hai huyệt vị mà thôi.

Điểm huyệt thông thường thời gian thực hiện mỗi lần trong 2 - 3 phút là được, sau khi hết thời gian điểm huyệt này thì lại đổi sang điểm huyệt khác. Nhưng thông thường thì điểm sao cho người bệnh cảm thấy dễ chịu là được, không được điểm quá lâu khiến cho người bệnh cảm thấy khó chịu.

Yêu cầu trong quá trình tiến hành điểm thì chủ yếu là áp lực lên từng huyệt vị phải từ nhỏ đến lớn, từ nhẹ đến mạnh, làm cho người bệnh dần thích ứng với lượng kích thích. Tuyệt đối không được vừa bắt đầu đã dùng lực quá mạnh, khiến cho người bệnh không thể chịu đựng nổi, người bị chứng đau bụng cấp tính thì kiêng điểm các huyệt thuộc vùng bụng đau.

Ưu điểm của điểm huyệt nằm ở chỗ lực điểm ấn tập trung, trực tiếp lên huyệt vị; người bệnh sau khi được điểm, thì có cảm giác giống châm cứu như buốt, căng, tê, buồn còn lưu lại lâu dài trên vùng huyệt được điểm ấn, có thể tạo nên hiệu quả trị liệu tương đối tốt.

Khuyết điểm của điểm huyệt nằm ở chỗ áp lực tập trung vào một huyệt vị trong thời gian dài, người bệnh có khi không dễ thích ứng và nếu như thời gian điểm quá lâu, thì người bệnh sẽ có cảm giác khó chịu kéo dài khó giải trừ như đau buốt cục bộ, tê, buồn.

Liệu pháp này thích hợp dùng trị liệu các chứng bệnh đau nhức, tê chân tay do phong, hàn, thấp; tiêu chảy; sổ mũi và cấp cứu.

Đăng kí nhận tin