BẤM HUYỆT (PHẦN II)

BẤM HUYỆT (PHẦN II)

 

5. Tác dụng theo Đông y:

Hoạt động của tạng phủ, kinh lạc là cơ sở cho hoạt động sống của cơ thể con người, trong đó hệ kinh lạc giữ vai trò quan trọng. Hệ kinh lạc là hệ thống các đường dọc và ngang phân bố chằng chịt khắp cơ thể, bên trong vào đến tạng phủ, bên ngoài đến cơ, da.

Nhờ hệ kinh lạc, khí huyết được tuần hoàn để nuôi dưỡng tạng phủ và các bộ phận khác của cơ thể, điều hòa âm dương, làm cho cơ thể trở thành một khối thống nhất, thích ứng được với những biến đổi từ bên ngoài tác động vào cơ thể, chống lại có hiệu quả các quá trình phát sinh, phát triển của bệnh tật. Huyệt vị được phân bố trên hệ kinh lạc, là nơi ra vào của nhiều loại khí: vệ khí, dinh khí và cả tà khí.

Khi cơ thể bị suy giảm khả năng tự bảo vệ do chính những rối loạn bệnh lý từ bên trong cơ thể, hoặc do các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài, bệnh tà bao giờ cũng thông qua huyệt xâm nhập vào các lạc mạch, kinh mạch để vào sâu trong tạng phủ. Lúc đó sự tuần hoàn của khí huyết trong kinh lạc bị ứ trệ, dẫn đến sự rối loạn hoạt động của các tạng phủ, rối loạn thăng bằng âm dương phá vỡ sự cân bằng sinh lý trong cơ thể.

Khi điều trị theo cách bấm huyệt, bằng những tác động hợp lý trực tiếp vào huyệt (bổ hay tả) giúp cho khí huyết trong hệ kinh lạc được lưu thông, hoạt động chức năng bình thường của các tạng phủ được phục hồi khả năng tự bảo vệ của cơ thể được nâng cao, tà khí sẽ bị đuổi ra ngoài. Trên cơ sở đó trạng thái cân bằng âm dương vốn có của cơ thể được lập lại, sức khỏe được hồi phục, các chứng bệnh, đau nhức được giải trừ.

6. Tác dụng theo Tây y:

Từ những thành tựu mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu y sinh học, con người đã hiểu biết sâu sắc hơn về cơ chế và tác dụng của phương pháp bấm huyệt chữa bệnh.

Khi bấm huyệt, người thầy thuốc tác động trực tiếp vào huyệt là những điểm mà kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy ở đó tập trung nhiều mạch máu và đặc biệt là nhiều dây, nhánh và thụ cảm thể thần kinh. Hệ thống thần kinh - thể dịch của cơ thể tiếp nhận các tín hiệu kích thích khi bấm vào huyệt đồng thời huy động toàn bộ cơ thể đáp ứng lại các kích thích bằng ba loại phản xạ: tại chỗ, tiết đoạn và toàn thân. Các đáp ứng của cơ thể dưới sự điều khiển của hệ thống thần kinh - thể dịch đều nhằm nâng cao khả năng tự bảo vệ, điều hòa các rối loạn bệnh lý. Tác dụng của bấm huyệt đối với các cơ quan trong cơ thể có thể tóm tắt như sau:

6.1. Đối với da và mô mỡ liên kết dưới da:

Da bao bọc cơ thể, chứa các loại cơ quan nhận cảm, bấm huyệt chính là tác động vào các cơ cấu này, hoặc nếu sâu hơn thì tác động vào chính dây thần kinh hoặc bao thần kinh quanh mạch máu, lập nên những vòng phản xạ mới có điều kiện, giúp cơ thể dần dần tự điều chỉnh tái lập lại thế cân bằng đã mất.

Bấm huyệt có khả năng tăng cường quá trình hô hấp, dinh dưỡng, thải trừ chất cặn bã của da do tác dụng của phản xạ vận mạch và sự điều hòa tại chỗ của các nhánh thần kinh. Nhờ đó da và mô mỡ liên kết dưới da tự nâng cao sức đề kháng cục bộ, điều chỉnh các rối loạn hoặc tổn thương bệnh lý.

6.2. Đối với hệ thần kinh và hệ nội tiết:

Mọi hoạt động sống của cơ thể đều do hệ thần kinh chi phối. Hệ thần kinh bao gồm: thần kinh trung ương gồm não và tủy sống; thần kinh ngoại vi gồm các dây thần kinh nối não và tủy sống với các cơ quan khác trong cơ thể; thần kinh thực vật bao gồm giao cảm và phó giao cảm, chi phối hoạt động của các cơ quan nội tạng.

Hệ nội tiết gồm nhiều tuyến: yên, thượng thận, giáp trạng, cận giáp trạng, tụy, ức... thường xuyên sản xuất và đổ vào máu những hoạt chất sinh học có tác dụng hưng phấn hay ức chế hoạt động của các cơ quan hay bộ phận trong cơ thể, dưới sự chỉ huy của hệ thần kinh, trực tiếp là các trung khu thần kinh vùng dưới đồi.

Hoạt động cơ bản nhất, quan trọng nhất của hệ thần kinh chính là thông qua các nơ-ron thần kinh. Toàn bộ hệ thần kinh có 16 tỷ nơ-ron thì vỏ não đã chiếm 14 tỷ. Mỗi nơ-ron thần kinh có hai chức năng truyền, xử lý xung thần kinh và điều chỉnh nội tiết.

Khi bấm vào huyệt, ta đã tác động tới hệ thống khép kín thần kinh và nội tiết của cơ thể, thông qua chức năng điều chỉnh của hệ thống này, tạo điều kiện cho cơ thể trở lại trạng thái cân bằng sinh lý.

Các hoạt động cơ bản của vỏ não như hưng phấn, ức chế… của thần kinh thực vật đều có biến đổi rõ rệt khi bấm huyệt. Khi bấm trúng huyệt, cung phản xạ có điều khiển mới được thành lập và có tác dụng hưng phấn, khả năng thay thế của các nơ-ron không bị tổn thương cho các nơ-ron bị tổn thương. Điều này có thể góp phần làm sáng tỏ lý do vì sao bấm huyệt, có khả năng giúp cho sự hồi phục của cơ thể, cơ quan bị tổn thương.

Nếu bấm và day huyệt với thao tác mạnh, nhanh thì có tác dụng kích thích thần kinh, gây co cơ hoặc làm cơ nhão được khỏe lên; nếu day bấm nhẹ, chậm, gây đau êm thì lại có tác dụng an thần, giảm đau, bớt co cứng.

6.3. Đối vơi hệ gân, cơ, khớp:

Cơ thể con người có 600 cơ, chiếm 30 - 40% trọng lượng toàn thân. Hệ thần kinh và hệ cơ có mối quan hệ hết sức mật thiết. Bất kì cơ nào dù nhỏ nhất khi hoạt động cũng không ngừng đưa về hệ thần kinh nói chung và não nói riêng những thông tin về trạng thái của nó; đồng thời cũng thường xuyên nhận những chỉ thị đáp ứng của não tủy kể cả khi ta ngủ thì toàn cơ thể bao gồm cả hệ cơ vẫn hoạt động. Những xung động sinh học từ cơ đưa về não là những tác nhân kích thích hoạt động của não, làm cho não hưng phấn. Cơ càng căng, càng hoạt động càng có nhiều xung động đưa về não.

Bấm huyệt làm cho những cơ mệt mỏi chóng được hồi phục, cơ được nuôi dưỡng tốt, phòng chống được tình trạng teo cơ, co cứng, phù nề, nâng cao khả năng làm việc của cơ.

Các gân cơ, bao khớp và xương có sự liên kết chặt chẽ; xung quanh bao khớp có những dây chằng giữ vững ổ khớp. Trong ổ khớp có bao hoạt dịch chứa dịch nhờn để giảm ma sát giữa các đầu xương.

Bấm huyệt có tác dụng tăng tính co giãn, hoạt động của gân, dây chằng, tác động đến quá trình tiết dịch và tuần hoàn của khớp: có tác dụng chống viêm sưng nề tại ổ khớp, tăng khả năng nuôi dưỡng và phục hồi chức năng vận động của khớp.

6.4. Đối với hệ tuần hoàn và hệ hô hấp:

Hệ thống tuần hoàn và hô hấp cũng bảo đảm sự trao đổi vật chất giữa các tổ chức cơ thể với môi trường xung quanh; cung cấp oxy cho tế bào chuyển hóa năng lượng, thải thán khí và các sản phẩm chuyển hóa khác.

Bấm huyệt có thể làm tăng tốc độ và lượng máu tuần hoàn, tăng cường quá trình trao đổi chất giữa máu và tế bào. Các tổ chức được cung cấp oxy và chất dinh dưỡng tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh các rối loạn cơ năng hoặc phục hồi các tổn thương thực thể. Trong chữa bệnh, nếu biết tác động vào các huyệt vị phù hợp, có thể làm tăng hay giảm huyết áp, có thể điều chỉnh lại đến mức cân bằng sinh lý.

Khi bấm huyệt trên da, qua vòng phản xạ thần kinh mới thiết lập, sẽ tác động tới trung khu hô hấp, tăng cường sự hoạt động của mô phổi giúp cho sự thông khí dễ dàng, giảm bớt lượng không khí cặn đọng trong phổi.

Bấm huyệt có thể làm cho các tiểu phế quản tận và các phế nang giãn ra hoặc co lại.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu cho biết, nếu tác động vào các đốt sống cổ thứ tư, thứ năm sẽ gây phản xạ co phổi; nếu tác động vào các đốt sống lưng thứ sáu, thứ bảy và thứ tám sẽ làm giãn phổi. Vì vậy, đối với từng bệnh, khi chữa cần phải biết chọn vị trí và kỹ thuật tác động thích hợp.

6.5. Đối với hệ bạch huyết:

Bạch huyết lưu thông trong hệ bạch mạch và qua các hạch bạch huyết. Hệ này thu nhận toàn bộ dịch gian bào rồi đổ vào vòng tuần hoàn lớn. Thành phần của mao bạch mạch có tính thẩm thấu cao, có khả năng hấp thụ những dung dịch keo và các tạp chất. Bấm huyệt có thể làm tăng tính thẩm thấu của thành bạch mạch, đồng thời làm tăng lưu thông của bạch huyết, do đó làm giảm hiện tượng phù nề, ứ đọng dịch trong từng bộ phận của cơ thể.

Hạch bạch huyết có ở nhiều nơi khác nhau trên cơ thể, khi hạch bị sưng đau là có hiện tượng nhiễm trùng vi khuẩn xâm nhập cơ thể bị giữ lại ở đó, ta không nên bấm mạnh vào các hạch bạch huyết bị viêm tấy để ngăn ngừa nhiễm trùng lan rộng.

6.6. Đối vơi hệ tiêu hóa:

Bấm huyệt làm tăng hoặc giảm nhu động và tiết dịch của dạ dày, ruột là tùy thuộc vào vị trí huyệt và cường độ bấm.

Bấm huyệt có thể làm giảm hoặc cắt đứt cơn đau vùng thượng vị, các cơn đau quặn do rối loạn tiêu hóa, do viêm tiểu tràng, viêm đại tràng…

Đăng kí nhận tin